sôi, nảy nở. Động vật và thực vật đều có các dấu hiệu và tính chất đặc trưng cho cơ thể sống nhưng
giữa chúng cũng có những điểm khác nhau: Thức ăn của động vật là các chất hữu cơ còn thực vật tự
tạo ra chất hữu cơ từ nước và khí cacbonnic dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Phần lớn động vật
đều di chuyển và vận động rất tích cực, chúng có các cơ quan vận động; còn thực vật không di
chuyển hoặc di chuyển rất ít.
Khoa học về điều kiện tồn tại của các cơ thể sống trong mối quan hệ qua lại giữa chúng với
nhau và với các điều kiện môi trường gọi là sinh thái học. Trong những năm gần đây diễn ra sự thay
đổi quan điểm trong tự nhiên học, ngoài cơ sở sinh vật học, bổ sung thêm quan điểm sinh thái học
về tự nhiên, thế giới đồ vật và chính con người.
Khái niệm trung tâm trong sinh thái học có thể sử dụng trong việc xây dựng phương pháp luận
cho trẻ làm quen với môi trường thiên nhiên. Đó là mối quan hệ qua lại giữa cơ thể sống với các điều
kiện môi trường. Bất kỳ một cơ thể sống nào cũng có các nhu cầu mà chỉ có các yếu tố của môi
trường bên ngoài mới có thể thoả mãn được. Đó trước hết là nhu cầu về thức ăn, nước uống, không
khí... thông qua quá trình trao đổi chất tạo ra năng lượng giúp cơ thể tồn tại và phát triển. Mỗi cá
thể trong quá trình sống của mình đều phải trải qua các giai đoạn phát triển nhất định và ở mỗi giai
đoạn cơ thể có các nhu cầu khác nhau cần được thoả mãn.
Khái niệm thứ hai của sinh thái học là sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi
trường.
Sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi trường biểu hiện ở tất cả các loài động vật
và thực vật, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống như vận động, thức ăn, phương thức bảo vệ, sinh
sản, trong đặc điểm cấu tạo ngoài, trong sự thay đổi theo mùa v.v...
Khái niệm tiếp theo của sinh thái học là quần thể sinh vật mà chúng ta quen gọi bằng từ ngữ
thông dụng như rừng, đồng cỏ, thảo nguyên, đầm, hồ v.v... Trong mỗi quần thể, thành phần chính là
các loại động, thực vật có cùng nhu cầu đối với các điều kiện môi trường. Những sinh vật sống
trong
một quần thể có một số các đặc điểm bên ngoài giống nhau mặc dù chúng không cùng họ, cùng loài.
Ví dụ: những con vật sống dưới nước thường có vây, đuôi; những con vật sống trên không thường có
cánh. Mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật chính là sự phụ thuộc thức ăn
- trong
sinh thái học gọi là chuỗi thức ăn.
Một trong những khái niệm sinh thái cần thiết cho việc xây dựng phương pháp luận làm quen với
thiên nhiên là mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên. Con người vừa là nhân tố tích cực
trong việc giữ gìn, cải tạo, bảo vệ môi trường thiên nhiên cũng vừa là nguyên nhân cơ bản của sự
phá huỷ môi trường, sự tuyệt chủng của một số loài động, thực vật, phá vỡ cân bằng sinh thái trong
thiên nhiên.
Như vậy, quan điểm sinh vật học và các khái niệm của sinh thái học nêu trên được trình bày phù
hợp với khả năng nhận thức của trẻ là cơ sở để xây dựng nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen
với thiên nhiên.
4