UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII


Cử tri Tp. Hải Phòng kiến nghị



tải về 3.4 Mb.
trang37/43
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.4 Mb.
#1536
1   ...   33   34   35   36   37   38   39   40   ...   43

14. Cử tri Tp. Hải Phòng kiến nghị:

Cử tri kiến nghị việc ra hạn Visa cho người lao động nước ngoài làm việc dài hạn tại Việt Nam nên quy định 12 tháng và 06 tháng thay vì lần đầu sáu tháng, lần hai là 3 tháng như hiện nay giúp cho người lao động yên tâm làm việc”.



Trả lời: (Tại Công văn số 2004/BCA-V11 ngày 31/8/2009).

Theo Pháp lệnh số 29/1999/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 21/2001/NĐ-CP ngày 28/05/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và Thông tư liên tịch số 04/2002/TTLT/BCA-BNG của Bộ Công an và Bộ Ngoại giao ngày 29/01/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 21/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định như sau:

- Thị thực một lần hoặc nhiều lần có giá trị không qúa 12 tháng được cấp cho người nước ngoài vào Việt Nam thực hiện các dự án theo giấy phép đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam (không quy định loại thị thực lao động).

- Thị thực một lần hoặc nhiều lần có giá trị không quá 06 tháng được cấp cho người nước ngoài vào Việt Nam không thuộc trường hợp nêu trên.

-Người nước ngoài tạm trú từ 01 năm trở lên được xét cấp thể tạm trú. Thẻ tạm trú có thời hạn từ 01 đến 03 năm. Người mang thẻ tạm trú được miễn thị thực xuất cảnh, nhập cảnh trong thời hạn giá trị của thẻ.

Thực tế, việc cấp Visa được thực hiện trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và các quy định nêu trên, Bộ Công an xem xét cấp phép nhập cảnh cho người nước ngoài với thời hạn phù hợp mục đích xin nhập cảnh và thông báo cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp thị thực cho người nước ngoài vào Việt Nam. Sau khi nhập cảnh Việt Nam, người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức phải tiến hành làm thủ tục xin giấy phép lao động (trừ trường hợp được miễn) theo quy định tại Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/03/2008 của Chính phủ về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam (trước đây là Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/09/2003). Sau khi có giấy phép lao động, họ sẽ được cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an xem xét cấp thị thực dài hạn đến 12 tháng, thậm chí còn được xem xét giải quyết cấp thẻ tạm trú đến 03 năm. Trường hợp người nước ngoài đã làm việc tại Việt Nam trên 06 tháng không xin giấy phép lao động thì các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị Bộ Công an xem xét buộc xuất cảnh.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xét cấp thi thực, cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài mà Bộ Công an đang thực hiện còn thông thoáng hơn ý kiến, kiến nghị của cử tri Tp. Hải Phòng.

Thực tế ở Tp. Hải Phòng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp của Việt Nam khi làm thủ tục cho khách nhập cảnh đều đề nghị cơ quan quản lý xuất nhập cảnh cấp thị thực nhập cảnh với thời hạn 06 tháng. Các trường hợp nói trên trong thời gian làm việc tại Tp. Hải Phòng, các doanh nghiệp phải làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động với Sở Lao động – thương binh và Xã hội Tp. Hải Phòng (trừ trường hợp được miễn). Khi hết thời hạn thị thực, về quy định, người nước ngoài buộc phải xuất cảnh; tuy nhiên, một số trường hợp do chưa hoàn tất thủ tục xin giấy phép lao động và theo đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh vẫn xem xét giải quyết gia hạn thêm 03 tháng để đủ thời hạn xin giấy phép lao động. Sau thời hạn này, nếu không có giấy phép lao động thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh mới từ chối gia hạn tiếp và yêu cầu người nước ngoài xuất cảnh. Riêng đối với các trường hợp được miễn giấy phép lao động theo quy định, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Công an thành phố Hải Phòng cấp thị thực dài hạn và thẻ tạm trú theo đề nghị của doanh nghiệp./.



BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
1. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị:

Hiện nay các điểm Bưu điện – Văn hóa xã (điểm BĐ-VHX) hoạt động không hiệu quả, ngành Bưu điện nghiên cứu chuyển các điểm BĐ-VHX về cho UBND cấp xã quản lý, khai thác.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Việc xây dựng và phát triển các điểm BĐ-VHX trong thời gian qua đã góp phần tạo điều kiện cho khu vực nông thôn được hưởng thụ các dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet như ở khu vực thành thị. Tính đến hết năm 2008, cả nước có 18.941 điểm phục vụ trong đó có 8.029 điểm BĐ-VHX; số xã đặc biệt khó khăn có điểm BĐ-VHX là 1.542 trên tổng số 1.644 xã đặc biệt khó khăn, đạt 86 %, trong đó 2.750 điểm có dịch vụ truy cập Internet; mức đầu tư bình quân cho mỗi điểm BĐ-VHX khoảng trên 100 triệu đồng/1điểm.

Việc xây dựng và phát triển các điểm BĐ-VHX đã rút ngắn bán kính phục vụ bình quân cũng như giảm đáng kể số dân phục vụ bình quân của một điểm phục vụ (bán kính phục vụ bình quân hiện nhỏ hơn 3km/điểm, số dân bình quân là 4.442 người/điểm). Về cơ bản, hoạt động của các điểm BĐ-VHX trong những năm qua đã thực hiện được một số mục tiêu sau:

- 100% số điểm BĐ-VHX đảm bảo đưa các dịch vụ bưu chính, viễn thông cơ bản về với người dân ở vùng nông thôn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số miền núi và các xã đặc biệt khó khăn, đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của người dân; 100% các trường phổ thông trung học trên toàn quốc đã được kết nối với mạng Internet trong đó bao gồm cả các trường dân tộc nội trú và miền núi.

- Tạo điều kiện cho người dân đến đọc sách, báo để tìm hiểu kinh nghiệm, kiến thức phát triển sản xuất góp phần nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.

Nhìn chung, hoạt động của các điểm BĐ-VHX trong những năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan, hoạt động của các điểm BĐ-VHX vẫn còn gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn đầu tư, về cơ sở vật chất và nguồn sách báo, về tổ chức cung cấp dịch vụ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các Bộ, ngành, đoàn thể và chính quyền địa phương. Do đó, mô hình điểm BĐ-VHX một số nơi chưa thực sự phát huy hiệu quả hoạt động như yêu cầu đề ra.

Để tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm BĐ-VHX trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông đang triển khai một số công tác sau:

- Nghiên cứu để chuyển đổi các điểm BĐ-VHX hoạt động không hiệu quả sang các hình thức khác có hiệu quả hơn, phù hợp điều kiện địa lý, diện tích, mật độ dân cư và nhu cầu thực tế của từng xã;

- Nghiên cứu thực hiện việc xã hội hoá hoạt động của các điểm BĐ-VHX trong đó cần có sự phối hợp tham gia tích cực của chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, đặc biệt là UBND cấp xã để bổ sung nguồn đầu tư, cơ sở vật chất và các chương trình phối hợp tại các điểm này.

- Kiến nghị với Chính phủ một số cơ chế chính sách mới phù hợp:

+ Tiếp tục cấp đất miễn phí để xây dựng các điểm BĐ-VHX trong thời gian tới; tiếp tục miễn thuế sử dụng đất và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với điểm BĐ-VHX.

+ Có chính sách hỗ trợ cho ngành Bưu chính đầu tư cho các đề án, công trình mang tính công ích như: Phổ cập các dịch vụ bưu chính, viễn thông phục vụ nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo trong đó có hệ thống điểm BĐ-VHX.

+ Bổ sung điểm BĐ-VHX vào danh sách các hạng mục cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm; miễn nghĩa vụ lao động công ích cho người làm việc tại điểm BĐ-VHX.

2. Cử tri các tỉnh Phú Thọ, Phú Yên kiến nghị:

Vừa qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng đưa ra những thông tin không chuẩn xác đã gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các cá nhân, doanh nghiệp và gây hoang mang trong xã hội (như các thông tin về các loại sữa, nước giải khát...có chứa các loại hóa chất) sau đó lại có thông tin đính chính. Cử tri đề nghị Nhà nước cần có sự chỉ đạo đảm bảo các thông tin cần được thẩm tra, xác minh đích thực trước khi đưa lên thông tin đại chúng.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Tình trạng một số cơ quan báo chí đăng thông tin sai sự thật gây bức xúc trong công luận. Đã có nhiều trường hợp cơ quan báo chí vì không kiểm định kỹ nguồn tin, cẩu thả trong khâu biên tập, chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Theo quy định của Luật Báo chí, người đứng đầu cơ quan chủ quản báo chí, chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí trực thuộc. Đối với các cơ quan báo chí thường xuyên mắc sai phạm, cơ quan chủ quản cần chỉ đạo báo trực thuộc kiểm điểm nghiêm túc các cá nhân có liên quan, xem xét lại quy trình tiếp nhận, xét duyệt, thẩm định tin, bài, đồng thời có kế hoạch điều chuyển công tác đối với lãnh đạo cơ quan báo chí. Kịp thời chấn chỉnh ngay tình trạng cơ quan báo chí trực thuộc xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa tự giác chấp hành Luật Báo chí, coi nhẹ chức năng tư tưởng văn hoá của báo chí cách mạng.

Trên thực tế, đã có nhiều phóng viên, kể cả tổng biên tập bị, kỷ luật như thôi giữ chức quản lý, thu hồi thẻ nhà báo, điều chuyển công tác khác. Nhờ đó, công tác quản lý báo chí ngày càng có chuyển biến tốt. Một trong nhiều giải pháp mà cơ quan quản lý báo chí đã triển khai thực hiện đó là ngoài việc xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật để báo chí phát triển, nhiều lớp học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ báo chí, đạo đức nghề báo cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, lãnh đạo cơ quan báo chí đã góp phần hạn chế xu hướng thông tin sai sự thật trên báo chí.

3. Cử tri các tỉnh Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Bình Thuận, Bình Định kiến nghị:

Cử tri kiến nghị Bộ có quy định và kiểm tra chặt chẽ những tổ chức, cá nhân dùng mạng Internet, điện thoại nhắn tin làm gây hoang mang tâm lý cho người tiêu dùng và nhằm mục đích quảng cáo thiếu lịch sự gây phiền hà cho người sử dụng.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Trong thời gian qua việc gửi tin nhắn rác và tin nhắn quảng cáo không đúng quy định gây bức xúc trong xã hội, trong đó một phần không nhỏ các tin nhắn rác mà người dùng nhận về là các thông tin không lành mạnh, quảng cáo lừa đảo, hoặc thiếu văn hóa gây phiền hà cho người sử dụng được phát tán bằng cách nhắn tin từ mạng Internet, từ các thuê bao di động trả trước hoặc từ các đơn vị cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng tin nhắn đến các thuê bao di động. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đã có nhiều tin, bài, phóng sự phản ánh về các vi phạm khi gửi tin nhắn cũng như những bất cập trong hoạt động của các doanh nghiệp trên mạng di động.

Để chống thư rác nói chung và tin nhắn rác, tin nhắn quảng cáo không lành mạnh tới các thuê bao di động nói riêng, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống Thư rác. Nghị định đã đưa ra các giải pháp để xác định những đơn vị, cá nhân cung cấp dịch vụ quảng cáo hợp pháp và không hợp pháp, các quy định ràng buộc trách nhiệm của các đối tượng cung cấp dịch vụ quảng cáo (đặc biệt là cung cấp cho người sử dụng khả năng từ chối nhận tin nhắn quảng cáo); trách nhiệm của các doanh nghiệp di động và Internet trong việc tiếp nhận khiếu nại từ người sử dụng và phối hợp để ngăn chặn, hạn chế tin nhắn rác; và các giải pháp để giúp người sử dụng phân biệt các tin nhắn quảng cáo hợp pháp và không hợp pháp, cách từ chối nhận tin nhắn rác. Về cơ bản việc cung cấp dịch vụ quảng cáo trên mạng phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo (cả bằng tin nhắn qua mạng di động và qua mạng Internet) phải đăng ký và được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp mã số quản lý để cung cấp dịch vụ;

- Mọi tin nhắn quảng cáo đều phải gắn nhãn và đặt ở vị trí đầu tiên trong phần nội dung tin nhắn và có dạng như sau: a) [QC] hoặc [ADV] đối với tin nhắn được gửi từ người quảng cáo; b) [QC Mã số quản lý] hoặc [ADV Mã số quản lý] đối với tin nhắn được gửi từ nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo;

- Nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo phải triển khai tiếp nhận từ chối nhận tin nhắn quảng cáo thông qua thư điện tử hoặc gọi bằng điện thoại.

Nghị định cũng đưa ra các điều cấm và các chế tài xử phạt vi phạm hành chính nếu các tổ chức cá nhân vi phạm các qui định tại Nghị định 90 của Chính phủ.

Để đẩy mạnh các hoạt động triển khai Nghị định 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác, ngày 30/7/2009 Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Chỉ thị số 04 CT/BTTTT giao cho các đơn vị có liên quan trong Bộ Thông tin và Truyền thông và các Sở Thông tin và Truyên thông triển khai các biện pháp nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát và ngăn chặn tin nhắn rác trên mạng viễn thông di động như sau:

- Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT) là đầu mối chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan trong hoạt động quản lý và điều phối ngăn chặn, xử lý tin nhắn rác. Cùng với việc cấp, quản lý mã số quản lý cho nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo qua tin nhắn, thư điện tử và qua mạng Internet, VNCERT có trách nhiệm tăng cường rà soát, phát hiện và đề xuất xử lý các vi phạm về gửi tin nhắn rác và tin nhắn quảng cáo sai quy định; hướng dẫn các doanh nghiệp viễn thông di động về các biện pháp xử lý, ngăn chặn tin nhắn rác. Đặc biệt, VNCERT có trách nhiệm xây dựng mạng lưới tiếp nhận và trao đổi thông tin điều phối xử lý thông báo tin nhắn rác và hệ thống kỹ thuật hỗ trợ tiếp nhận, điều phối xử lý tin nhắn rác và tin nhắn quảng cáo.

- Các cơ quan thông tin, báo chí thuộc Bộ gồm Trung tâm Thông tin, báo Vietnamnet, Báo Bưu điện Việt Nam, Tạp chí CNTT-TT, Đài truyền hình kỹ thuật số VTC tăng cường hoạt động tuyên truyền về hoạt động ngăn chặn, xử lý tin nhắn rác; tiếp nhận các phản ánh của người sử dụng về tin nhắn rác để thông báo cho cơ quan chức năng.

- Thanh tra Bộ tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý các sai phạm có liên quan tới tin nhắn rác, hướng dẫn các Sở Thông tin và Truyền thông về việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi phát tán tin nhắn rác. Các Sở Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm tăng cường thanh kiểm tra và xử lý các sai phạm liên quan tới phát tán tin nhắn rác, đồng thời đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về các quy định và hoạt động ngăn chặn, xử lý tin nhắn rác cho doanh nghiệp, người sử dụng.

Trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục triển khai tiếp một số hoạt động QLNN đồng thời chỉ đạo các cơ quan báo chí, đặc biệt là các đài phát thanh truyền hình, báo điện tử, các trang thông tin điện tử tuyên truyền pháp luật về thư rác nhằm chống tin nhắn rác và tin nhắn quảng cáo không lành mạnh, đồng thời phát triển một thị trường nội dung trên mạng thông tin di động và Internet đảm bảo lợi ích của người sử dụng.



4. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Ninh Thuận kiến nghị:

Công tác quản lý văn hóa, các trò chơi trên mạng, các blog cá nhân còn nhiều bất cập, là một trong nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nguy hiểm, nhất là trong các tầng lớp thanh, thiếu niên. Đề nghị cần hoàn thiện các quy định pháp lý để quản lý tốt hơn các vấn đề này, xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân sai phạm.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Với chức năng là cơ quan QLNN đối với lĩnh vực thông tin điện tử, thời gian qua, nhằm quản lý, hạn chế những mặt tiêu cực của thông tin trên mạng Internet, các trò chơi trên mạng, các blog, bên cạnh việc tăng cường công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ động hoàn thiện các quy định pháp lý trong lĩnh vực này như sau:

- Chủ trì xây dựng dự thảo, trình Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ban hành Luật công nghệ thông tin; Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet; Nghị định 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.

- Ban hành thông tư hướng dẫn hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân (blog).

- Đang xây dựng dự thảo, chuẩn bị ban hành Thông tư hướng dẫn hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử.

- Để quản lý trò chơi trực tuyến (Game Online), ngày 01/6/2006, liên Bộ Văn hóa - Thông tin, Bưu chính - Viễn thông, Công an đã ban hành Thông tư số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến. Trong Thông tư đã quy định trách nhiệm của các đối tượng điều chỉnh là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến, các đại lý Internet, người chơi và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan thực hiện chức năng quản lý; quy định cụ thể nhằm loại bỏ những game trực tuyến có nội dung xấu không được phát hành tại Việt Nam, hạn chế việc chơi Game Online quá nhiều, hạn chế tác động tiêu cực của Game Online đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh. Tuy nhiên để các quy định của Thông tư 60 được thực hiện có hiệu quả cao cần có sự phối hợp quản lý, kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ quan chức năng, đặc biệt là sự phối hợp của gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể và chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở.

Hiện nay, do sự phát triển rất nhanh chóng và đa dạng của loại hình trò chơi trực tuyến, một số nội dung của Thông tư 60 không còn phù hợp với thực tiễn như giờ chơi, quản lý vật phẩm ảo, loại hình game trực tuyến, vì vậy Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng văn bản về quản lý trò chơi trực tuyến thay thế Thông tư số 60 trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Theo dự kiến, dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý trò chơi trực tuyến thay thế Thông tư 60 sẽ được hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ trong Quý IV/2009.

Bên cạnh việc phối hợp các biện pháp quản lý hành chính, kỹ thuật, một việc làm không thể thiếu được là cần phải phát huy tốt hơn nữa vai trò của gia đình, nhà trường và tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương và cộng đồng xã hội trong việc phối hợp giáo dục và quản lý người chơi, nhất là thế hệ trẻ.



5. Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị:

Đề nghị Bộ chỉ đạo Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông Việt Nam đầu tư hạ tầng viễn thông và nâng cấp điểm BĐ-VHX tại xã Đưk Kôi, huyện Kon Rẫy vì tại đây hiện nay hạ tầng viễn thông hầu như không có, điểm BĐ-VHX đã xuống cấp nhiều không đáp ứng đựơc các yêu cầu hoạt động kinh tế - xã hội và đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Về tổng thể, hiện nay Bộ đang triển khai xây dựng đề án phát triển thông tin, truyền thông nông thôn nhằm đưa cơ sở hạ tầng mạng về đến xã và hộ gia đình, đưa dịch vụ thông tin truyền thông đến người dân vùng nông thôn, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, xoá đói giảm nghèo, giữ vững an ninh, quốc phòng, xoá dần khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị. Ngoài việc áp dụng chính sách ưu tiên phát triển bưu chính, viễn thông nông thôn, để phù hợp với nhu cầu cấp bách của người dân, thực hiện cung ứng dịch vụ bưu chính, viễn thông cho vùng công ích, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,… một số cơ chế, chính sách của Nhà nước được triển khai áp dụng trong đó tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ viễn thông, Internet theo chương trình viễn thông công ích giai đoạn 2005-2010 của Chính phủ, xây dựng chương trình hỗ trợ giai đoạn 2010-2015 nhằm tạo điều kiện cho các các doanh nghiệp cung cấp cơ sở hạ tầng mạng, cung cấp dịch vụ thông tin, truyền thông cho người dân vùng đặc biệt khó khăn trong đó các điểm BĐ-VHX.

Đối với các địa điểm theo yêu cầu nêu trên, Bộ đã chỉ đạo Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông Việt Nam xem xét cụ thể và có phương án triển khai. Ngày 21/8/2009 Tập đoàn đã có văn bản số 3261/VNPT-VP báo cáo Bộ và gửi Đảng ủy, UBND xã Đưk Kôi về tình hình dịch vụ viễn thông và hoạt động của điểm BĐ-VHX tại địa phương. Tập đoàn đã chỉ đạo Viễn thông và Bưu điện Kon Tum tổ chức khảo sát đánh giá thực trạng mạng lưới và có kế hoạch đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện và đưa vào sử dụng các trạm phát sóng điện thoại di động của Vinaphone ; đầu tư mở rộng dịch vụ của điểm BĐ-VHX trên cơ sở nhu cầu sử dụng dịch vụ của nhân dân địa phương.

6. Cử tri các tỉnh Sóc Trăng, Thái Bình, Tiền Giang, Bình Định, Tây Ninh, Lào Cai (nội dung 6,7,9) kiến nghị:

Gần đây thông tin quảng cáo trên một số đài phát thanh, truyền hình đưa ra không chính xác, quảng cáo mang tính giật gân, câu khách, không đúng với chất lượng sản phẩm, đánh lừa người tiêu dùng. Một số quảng cáo với những nội dung không phù hợp với đa số đối tượng người xem, người nghe đài, không mang tính định hướng gây ra sự bức xúc đối với người dân…Cử tri đề nghị Bộ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan cần có giải pháp để chấn chỉnh tình trạng trên.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Trong thời gian qua, việc quảng cáo trên các đài phát thanh - truyền hình đã góp phần tăng nguồn thu cho các đài phát thanh - truyền hình, góp phần nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, một số cơ quan báo chí vẫn có những vi phạm như quảng cáo không đúng chất lượng sản phẩm; quảng cáo quá thời lượng cho phép…. Luật Báo chí, Pháp lệnh quảng cáo quy định rõ các nội dung thông tin quảng cáo được phép đăng tải trên báo chí nói chung và phát thanh - truyền hình nói riêng trong đó quy định cụ thể về sản phẩm được phép quảng cáo, thời lượng, thời gian quảng cáo.

Với chức năng là QLNN về báo chí, trong các cuộc giao ban báo chí định kỳ hàng tuần, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có những định hướng và văn bản nhắc nhở các cơ quan báo chí, trong đó có các đài phát thanh, truyền hình trong việc phát sóng các chương trình quảng cáo (đặc biệt chú ý đến một số mặt hàng cấm quảng cáo như thuốc lá, rượu mạnh, tin nhắn…). Đồng thời, Bộ cũng xử lý nghiêm túc với những sai phạm, vi phạm liên quan đến hoạt động quảng cáo trên báo chí. Để tăng cường kỷ cương quản lý, trong đó có quản lý hoạt động quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục đưa ra các biện pháp chấn chỉnh kịp thời nội dung thông tin của các hoạt động quảng cáo trên các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị và năng lực chuyên môn cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên; đồng thời Bộ tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL về lĩnh vực báo chí nói chung và lĩnh vực phát thanh, truyền hình nói riêng hợp lý và chặt chẽ hơn.



7. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:

Đề nghị Bộ sớm có kế hoạch chấn chỉnh, quản lý kinh doanh truyền hình kỹ thuật số vệ tinh, truyền hình cáp… để bảo vệ tốt quyền lợi của người tiêu dùng hiện nay.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Cùng với sự phát triển chung của đất nước, các phương tiện phát thanh - truyền hình đã có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện, góp phần quan trọng trong sự nghiệp phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.

Trong những năm gần đây, dịch vụ truyền hình trả tiền nói chung và truyền hình cáp nói riêng đã trở nên phổ biến, góp phần đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí ngày càng cao của người dân; tạo việc làm cho người lao động và đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Các Đài phát thanh, truyền hình đã cho ra đời nhiều chương trình mới, thời lượng các chương trình phát thanh, truyền hình đã tăng lên đáng kể. Số lượng các chương trình truyền hình trả tiền tăng nhiều so với trước đây. Hiện nay, trung bình mỗi mạng truyền hình cáp đang chuyển tải khoảng 45 đến 50 kênh chương trình. Số lượng các chương trình truyền hình trong nước, đặc biệt là các chương trình được sản xuất riêng cho truyền hình trả tiền đã chiếm ưu thế hơn so với các kênh chương trình nước ngoài. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh và Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội đang là những đơn vị đi đầu trong việc sản xuất các chương trình truyền hình dành riêng cho truyền hình trả tiền. Về mặt kỹ thuật, chất lượng tín hiệu truyền dẫn cũng đã được cải thiện rõ rệt. Các Đài phát thanh, truyền hình dần dần áp dụng công nghệ truyền dẫn, phát sóng hiện đại để bảo đảm chất lượng âm thanh, hình ảnh ngày một tốt hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, truyền hình trả tiền đã tồn tại một số hạn chế: một số chương trình trên truyền hình trả tiền có nội dung, chưa phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục Việt Nam; chất lượng tín hiệu truyền dẫn một số kênh truyền hình còn chưa đồng đều. Thêm vào đó, do chưa có quy hoạch tổng thể và tiêu chí cụ thể về định hướng phát triển nên việc hình thành mạng cáp trên cả nước phân tán, thiếu liên kết, liên thông, hoạt động tập trung chủ yếu ở các khu đô thị lớn, những khu vực đông dân cư.

Nhận thấy những bất cập, hạn chế trên, Bộ Thông tin và Truyền thông với tư cách là cơ quan QLNN về báo chí và phát triển hạ tầng phát thanh – truyền hình đã tăng cường các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng nội dung và kỹ thuật của truyền hình trả tiền nói chung và truyền hình cáp nói riêng như: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của truyền hình trả tiền; thường xuyên kiểm tra, giám sát những hoạt động của truyền hình trả tiền…. Nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của cơ quan QLNN về báo chí và nhằm đưa hoạt động của truyền hình trả tiền nói chung, truyền hình cáp nói riêng phát triển có hệ thống, đạt chất lượng cao. Trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục triển khai các biện pháp cụ thể như: tăng cường chấn chỉnh, kiểm tra việc thực thi các quy định của pháp luật của hoạt động truyền hình trả tiền; xây dựng hệ thống văn bản QPPL liên quan nhằm tạo hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng cho hoạt động truyền hình trả tiền nói chung và hoạt động truyền hình cáp nói riêng như: Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí; triển khai Quy hoạch hệ thống phát thanh - truyền hình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; soạn thảo Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền; xây dựng tiêu chí cấp phép cung cấp các dịch vụ phát thanh truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh.


Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học
files -> ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014

tải về 3.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   33   34   35   36   37   38   39   40   ...   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương