CHƯƠNG 3: SỐ LIỆU ĐO ĐẠC TẠI PHÒNG THÍ NGHIỆM VÀ TẠI HIỆN TRƯỜNG
Số liệu đo đạc từ các phòng thí nghiệm và hiện trường đóng vài trò quan trọng trong việc hiệu chỉnh và kiểm tra mô hình số tính toán lan truyền sóng ngẫu nhiên và sóng bất đối xứng vùng ven bờ biển. Trong chương này, các bộ số liệu đo đạc từ phòng thí nghiệm của trường Đại học Công nghệ Delft (Hà Lan) cũng như từ hiện trường tại vùng biển Egmond (Hà Lan) sẽ được giới thiệu tóm tắt sau đây.
3.1. Số liệu đo đạc trong phòng thí nghiệm của trường ĐHCN Delft, Hà Lan
Số liệu thu thập được của Grasmejer và Van Rijn (1999) được thực hiện trong phòng thí nghiệm bể sóng cỡ nhỏ của trường Đại học Công nghệ Delft, Hà Lan. Bể sóng có kích thước chiều dài 50 m, chiều rộng 0.8 m, và chiều cao 1 m. Địa hình đáy của bể sóng được phủ bởi cát với kích cỡ hạt trung bình là 0.095 mm và được thiết kế như Hình 3.1, trong đó có tồn tại một ba cát ở ngoài khơi với đỉnh ba cát tại vị trí x = 12m. Từ vị trí 0 m x 6 m, độ sâu đáy biển là 0.6m. Từ vị trí x = 6 m tới đỉnh ba cát có độ sâu 0.3 m, độ dốc đáy biển là 1:20. Sau đó độ sâu đáy biển tăng dần tới đáy của ba cát (có độ sâu 0.5 m) với độ dốc 1:25. Từ đáy ba cát tới bờ, độ sâu giảm dần với độ dốc 1:63. Phổ sóng thiết lập là JONSWAP với độ cao sóng ngoài khơi cho các thí nghiệm B1và B2 tương ứng lần lượt là 0.16 m và 0.19 m. Chu kỳ sóng là 2.3 giây, và hướng sóng truyền vuông góc với bờ cho cả hai thí nghiệm B1 và B2. Tổng cộng có 10 vị trí đo đạc số liệu sóng và dòng chảy cho các thí nghiệm trên. Vị trí của các điểm đo được thể hiện trong Hình 3.1, với sự tập trung đo đạc tại lân cận ba cát, đặc biệt ở phía trên đỉnh của ba cát.
Hình 3.1: Địa hình đáy của bể sóng và vị trí các điểm đo đạc
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |