áp suất vỉa tự nhiên, mặc dù lưu lượng khai thác tăng từ 65,000 ngàn
16
Đồ thị mô tả mối quan hệ giữa thể tích chất lưu khai thác và áp suất suy giảm,
mối quan hệ này là tuyến tính (đường thẳng) khi không có nước vỉa xâm nhập
và sẽ suy giảm cong xuống khi lượng nước vỉa xâm nhập lớn hơn 0.
Hình 3.11 Đồ thị biểu diễn mối quan hệ suy giảm áp suất và chất lưu khai thác
Như vậy, bằng phương pháp khảo sát đo áp suất vỉa định kỳ khi bắt đầu có hiện
tượng nước xâm nhập vào vỉa thì đường thẳng biểu diễn mối qua hệ này sẽ bắt
đầu thay đổi và đây là 1 trong những dấu hiệu quan trọng giúp nhận biết sớm sự
có mặt của tầng nước vỉa. Đối với mỏ STĐ nước bắt đầu xâm nhập vào vỉa khi
áp suất vỉa giảm 400-600 psi hay khi 9-10 triệu thùng chất lưu được khai thác
(Hình 3.11)
Mô hình thủy động lực
Kết quả mô phỏng vỉa hiện tại được chạy với giả thiết các hệ số nén thể tích
khác nhau hoặc là hàm theo áp suất vỉa, tuy nhiên với lượng dầu tại chỗ là
500Tr. thùng thì không có trường hợp nào mô hình cho kết quả áp suất và WC
như thực tế. Trong khi với cùng giả thiết trữ lượng dầu tại chỗ là 500Tr. thùng,
hệ số nén thể tích Cf =9.10
-6
theo như đo đạc thì với giá trị trữ lượng tầng nước
vỉa khác nhau mô hình đã cho kết quả tính áp suất và WC gần hơn với số liệu
thực tế, đặc biệt với trường hợp trữ lượng tầng nước vỉa khoảng 15 lần OIIP
cho kết quả khá khớp với số liệu thực. Như vậy sau khi đã hiệu chỉnh thành
công mô hình khớp với số liệu lịch sử khai thác mỏ STĐ cho phép khẳng định
có sự đóng góp của tầng nước vỉa cung cấp năng lượng trong quá trình khai
thác.
Các dấu hiệu khi phân tích thành phần hóa nước khai thác đồng hành
Kết quả thực nghiệm về sự biến đổi thành phần được tiến hành với các mẫu
nước và đá trong điều kiện nhiệt độ tương tự như dưới vỉa đã cho thấy thành
phần các Ion Cl, Mg, Br và TDS có thành phần ít bị biến đổi nhất và có sự
khác biệt rõ ràng giữa nước bơm ép và nước vỉa. Trên cơ sở kết quả phân tích
0
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
1,600
1,800
2,000
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Chia sẻ với bạn bè của bạn: