PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri



tải về 3.72 Mb.
trang9/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48

Trả lời: (tại công văn số 3809/BTC-NSNN ngày 2/4/2008)

Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Nghị quyết của Quốc hội, khoản thu tiền sử dụng đất ngân sách địa phương được hưởng 100% dành để đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế -xã hội.

Với cơ chế thu, chi như trên thì khoản thu tiền sử dụng đất cao hay thấp không ảnh hưởng đến tỷ lệ điều tiết và số bổ sung cân đối từ nguồn ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương. Việc xác định dự toán thu tiền sử dụng đất khi xây dựng dự toán thu ngân sách nhà nước hàng năm được tính toán, trao đổi với các địa phương trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện năm trước và dự kiến khả năng thực hiện năm sau (dự toán 2008: 16.500 tỷ đồng). Mặt khác, việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án là thuộc thẩm quyền của các địa phương trên cơ sở chế độ chính sách về đất đai quy định và quy hoạch được duyệt để thực hiện chủ trương tăng cường phân cấp quản lý về tài chính- ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương. Địa phương hoàn toàn chủ động về việc xây dựng dự toán và sử dụng nguồn thu này.

27/ Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: “Để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh miền núi, đề nghị Chính phủ có chính sách trợ cước vận chuyển phân bón đến các xã vùng I của các tỉnh miền núi”.

Trả lời: (tại công văn số 3808/BTC-NSNN ngày 2/4/2008)

Theo quy định tại Nghị định số 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 và Nghị định 02/2002/NĐ-CP ngày 03/01/2002 của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng dân tộc, mặt hàng phân bón thuộc danh mục hàng chính sách được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để trợ cước vận chuyển.

Đối với kinh phí trợ giá, trợ cước vận chuyển các mặt hàng chính sách đã được bố trí trong chi cân đối ngân sách địa phương. Để các địa phương chủ động trong việc sử dụng nguồn kinh phí trợ giá, trợ cước có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương, Nghị quyết số 09/2007/QH12 ngày 14/11/2007 của Quốc hội về phân bổ ngân sách trung ương năm 2008 đã giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định cụ thể việc sử dụng nguồn kinh phí trợ giá, trợ cước và cấp không thu tiền một số mặt hàng chính sách năm 2008 đã được bố trí trong chi cân đối ngân sách địa phương, bảo đảm hiệu quả, đúng đối tượng thụ hưởng và phù hợp với thực tế ở địa phương.

28/ Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị: “Theo Thông báo số 09/TB-VPCP ngày 12/01/2005 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ thì Chính phủ đồng ý hỗ trợ 50% kinh phí từ ngân sách trung ương để xây dựng trường bán trú cho học sinh dân tộc, nhưng đến nay tỉnh vẫn chưa được hỗ trợ nguồn kinh phí trên. Đề nghị quan tâm hỗ trợ trong năm 2008”.

Trả lời: (tại công văn số 3802/BTC-NSNN ngày 2/4/2008)

Ngày 9/3/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum có văn bản số 416/UBND-NL gửi Thủ tướng Chính phủ về một số đề nghị của tỉnh Kon Tum, trong đó có đề nghị Trung ương hỗ trợ 70% vốn đầu tư để thực hiện “Đề án xây dựng các trường bán trú cho học sinh dân tộc”. Về việc này, Bộ Tài chính đã có văn bản số 4248/BTC-NSNN ngày 31/2/2006 gửi Văn phòng Chính phủ với nội dung nhất trí với đề nghị của tỉnh, mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương bằng 70% tổng mức đầu tư của Đề án và đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí vốn bổ sung có mục tiêu để địa phương có nguồn để thực hiện.

Ngày 02/6/2006, Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 2966/VPCP thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết một số đề nghị của tỉnh Kon Tum, trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo bố trí hỗ trợ vốn bằng 70% tổng mức đầu tư của Đề án xây dựng các trường bán trú cho học sinh dân tộc của tỉnh Kon Tum, qua nguồn hỗ trợ có mục tiêu hàng năm.

29/ Cử tri tỉnh Bắc Kạn, Ninh Thuận kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ xem xét lại việc phân bổ ngân sách cho địa phương căn cứ trên cơ sở số dân là chưa hợp lý, chỉ có lợi cho các tỉnh , đồng bằng, các tỉnh đông dân, trong khi các địa phương miền núi, các tỉnh ít dân cư nhưng diện tích địa bàn lớn, các chi phí quản lý cũng tăng nên đã dẫn đến rất nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ”.

Trả lời: (tại công văn số 3798, 3801/BTC-NSNN ngày 2/4/2008)

Theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2007, thì định mức phân bổ chi thường xuyên cho các địa phương căn cứ trên cơ sở dân số có phân theo vùng, miền đồng thời còn căn cứ số đơn vị hành chính cấp huyện, xã và các cơ sở này đều phân theo vùng. Theo đó, định mức phân bổ chi thường xuyên vùng miền núi cao hơn vùng đồng bằng (định mức phân bổ chi giáo dục: miền núi, hải đảo gấp 1,72 lần so với đồng bằng, tương tự với đào tạo và dạy nghề là 1,8 lần, y tế là 1,77 lần, văn hóa thông tin là 1,92 lần, đảm bảo xã hội là 1,58 lần...; đối với quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể theo dân số: vùng miền núi bằng 1,44 lần so với vùng đồng bằng; theo đơn vị hành chính: cấp huyện, vùng miền núi bằng 1,1 lần so với vùng đồng bằng; cấp xã, vùng miền núi bằng 1,38 lần so với vùng đồng bằng. Ngoài ra, đối với những địa phương khó khăn hoặc có dân số thấp, tại Quyết định trên của Thủ tướng Chính phủ đã quy định phân bổ thêm số chi tính theo định mức dân số theo vùng là: 5% đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long; 10% đối với các tỉnh có dân số dưới 500 nghìn dân; 8% đối với những tỉnh có dân số từ 500 – 800 nghìn dân). Như vậy, định mức phân bổ chi thường xuyên cho các địa phương hiện nay đã tính đến các điều kiện đặc thù khó khăn của các tỉnh miền núi (diện tích địa bàn lớn, dân số ít, điều kiện đi lại khó khăn...) so với các tỉnh đồng bằng. Đề nghị địa phương chủ động sắp xếp trong phạm vi ngân sách địa phương được giao để bố trí kinh phí thực hiện được nhiệm vụ. Những phát sinh bất hợp lý Bộ Tài chính sẽ tổng hợp để nghiên cứu, sửa đổi trong thời gian tới.



30/ Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị:

1. Vấn đề kinh phí cho các hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp còn chưa hợp lý, cụ thể như kinh phí cho hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri còn thấp, chưa kịp thời...Đề nghị Bộ Tài chính xem xét.



2. Đề nghị xem xét định mức ngân sách cấp cho công tác quốc phòng cấp xã với mức 10 – 12 triệu đồng/năm/xã là quá thấp”.

Trả lời: (tại công văn số 3801/BTC-NSNN ngày 2/4/2008)

1. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước thì kinh phí cho hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp trong đó có hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri do ngân sách địa phương đảm bảo và Họi đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định khi phân bổ dự toán ngân sách địa phương hàng năm. Về nguồn kinh phí để ngân sách địa phương bố trí cho các hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp năm 2007 và các năm trong thời kỳ ổn định ngân sách 2007 – 2010 đã được tính trong dự toán chi ngân sách địa phương và được Thủ tướng Chính phủ giao hàng năm. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh căn cứ nguồn ngân sách của địa phương và chế độ quy định trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đảm bảo hoạt động của Hội đồng nhân dân kể cả hoạt động giám sát và tiếp xúc cử tri.

2. Mức chi cho công tác quốc phòng địa phương trong đó có mức chi cho công tác quốc phòng của cấp xã đã được xác định theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2007 và đã được bố trí trong dự toán chi ngân sách địa phương và được Thủ tướng Chính phủ giao hàng năm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010. Theo chế độ quy định, căn cứ dự toán chi ngân sách được giao, Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức phân bổ chi ngân sách địa phương trong đó có định mức phân bổ chi ngân sách cho công tác quốc phòng cấp xã. Do vậy, trường hợp mức chi cho công tác quốc phòng cấp xã thấp, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp điều chỉnh lại định mức chi cho công tác quốc phòng ở cấp xã cho phù hợp.

31/ Cử tri tỉnh Bình Thuận, Cà Mau, Đồng Tháp, Bến Tre, Lạng Sơn kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ xem xét, giảm bỏ các khoản thu phí và lệ phí trong nhân dân. Hiện nay còn tồn tại nhiều khoản thu gây khó khăn trong đời sống của người nông dân nghèo”.

Trả lời: (tại công văn số 3781/BTC-CST ngày 2/4/2008)

Hiện nay, người dân đóng góp các khoản thu như:

- Các khoản phí, lệ phí theo quy định của Pháp lệnh phí, lệ phí.

- Các khoản người dân phải trả cho đơn vị cung cấp dịch vụ khi được các đơn vị này cung cấp một số dịch cụ theo thỏa thuận (như dịch vụ thú y, bảo vệ thực vật, bảo vệ đồng ruộng, phí quản lý điều hành hợp tác xã...). Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người dân phải đống, chỉ những người có nhu cầu được cung cấp dịch vụ mới phải chi trả.

- Các khoản đóng góp theo quy định của cơ quan nhà nước và các hội đoàn thể để thực hiện một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, thực hiện công tác từ thiện hoặc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của các hội đoàn thể.

Để chấn chỉnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, chính sách huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg ngày 01/11/2007, theo đó: Thủ tướng Chính phủ đã quy định miễn một số khoản lệ phí cho nhân dân (gồm: phí an ninh, trật tự; phí phòng chống thiên tai; lệ phí hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân và lệ phí địa chính). Đồng thời, yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bãi bỏ các quy định thu không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền; đối với các khoản huy động đóng góp tự nguyện phải thực hiện theo đúng nguyên tắc tự nguyện, không được ra văn bản bắt buộc đóng góp.

Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, các địa phương đã và đang tiếp tục rà soát, loại bỏ các khoản phí, lệ phí không có trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh phhí, lệ phí, thực hiện miễn một số khoản phí, lệ phí theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ các quy định huy động đóng góp của nhân dân do Hội đồng nhân dân cấp xã quy định không đúng thẩm quyền.

Trong năm 2008, Chính phủ sẽ tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh phí, lệ phí trên cơ sở đó, sửa đổi, bổ sung các khoản phí, lệ phí cho phù hợp thực tế triển khai ở các địa phương phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân.



32/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ quan tâm, có cơ chế đầu tư trở lại khoản thu thuế xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Móng Cái theo như Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg trước đây (được đầu tư trở lại không quá 50% số thực thu) nếu không thì được để lại từ 20 – 30% số thực thu để tạo điều kiện cho thị xã Móng Cái thanh toán các khoản nợ đọng trong xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn 53/2001/QĐ-TTg trước đây”.

Trả lời: (tại công văn số 3783/BTC-CST ngày 2/4/2008)

Việc đầu tư trở lại theo Quyết định 53/2001/QĐ-TTg trước kia là nhằm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu kinh tế cửa khẩu (KTCK), không nhằm thanh toán các khoản nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Cơ chế đầu tư trở lại không phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước ban hành ngày 16/12/2002 và đã bị bãi bỏ bởi Quyết định 185/2003/QĐ-TTg ngày 10/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc bãi bỏ các quy định của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp lại, đầu tư trở lại từ các khoản thu của ngân sách nhà nước từ năm ngân sách 2004.

Ngày 31/10/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 53/2001/QĐ-TTg về chính sách đối với Khu KTCK biên giới, trong đó tại nội dung sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 2 về việc đầu tư xây dựng CSHT Khu KTCK đã quy định theo hướng thay cơ chế đầu tư trở lại nói trên bằng chính sách Ngân sách Trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu cho hoạt động của các Khu KTCK. Mức hỗ trợ đầu tư từ ngân sách Trung ương đối với cá Khu KTCK căn cứ vào các dự án đầu tư cụ thể, mức độ khó khăn của địa phương và khả năng của ngân sách trung ương hàng năm. Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg cũng quy định Ủy ban nhân dân các tỉnh được sử dụng tiền sử dụng đất để xây dựng kế cấu hạ tầng và tạo nguồn vốn để giải phóng mặt bằng cho đầu tư phát triển tại địa phương, ưu tiên cho các Khu kinh tế cửa khẩu.

Do đó, đối với các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu của Khu KTCK Móng Cái đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện đầu tư, Ủy ban nhân dân thị xã Móng Cái thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật NSNN, Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 78/2006/QĐ-TTg hướng dẫn thực hiện Quyết định 53/2001/QĐ-TTg và Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để được hỗ trợ đầu tư. UBND thị xã Móng Cái báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về phương án sử dụng tiền sử dụng đất để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho các công trình cơ sở hạ tầng của Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái.



33/ Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: “Đề nghị giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các Quỹ tín dụng nhân dân từ 28% hiện nay xuống 10 – 15% vì hoạt động của các tổ chức này khó khăn, không được Nhà nước hỗ trợ vốn”.

Trả lời: (tại công văn số 3782/BTC-CST ngày 2/4/2008)

Quỹ tín dụng nhân dân có vai trò khá quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn thông qua việc tạo vốn để người dân phát triển kinh tế hộ gia đình, các ngành nghề thủ công nghiệp, qua đó, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn và cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân được Chính phủ xếp vào Danh mục ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Danh mục này là căn cứ để hưởng các ưu đãi về thuế, tài chính và đất đai theo quy định của pháp luật. Về thuế thu nhập doanh nghiệp, theo Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì Quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, được miễn thuế trong 2 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp cho 3 năm tiếp theo. Trường hợp Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động tại các địa phương thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì được miễn thuế trong 3 năm và giảm 50% số thuế phải nộp cho 7 năm tiếp theo.

Việc thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư cần bảo đảm sự cân đối chung sự đóng góp của các ngành, lĩnh vực đối với sự phát triển kinh tế -xã hội của quốc gia, Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay được xếp vào Danh mục ưu đãi đầu tư. Trong quá trình sửa đổi Luật thuế TNDN (trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3) vấn đề thuế đối với Quỹ tín dụng nhân dân cũng được đưa ra xem xét, báo cáo Quốc hội quyết định mức thuế suất ưu đãi hợp lý.

34/ Cử tri tỉnh Hà Tây, Nghệ An, Điện Biên, Phú Thọ, Phú Yên, Bình Định kiến nghị: “Đề nghị Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh Thông tư 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 về quy định chế độ chi tiêu cho phù hợp với tình hình thực tế, nhất là chi hội họp, chi tiếp khách”.

Trả lời: (tại công văn số 3751, 3750, 3749, 3744, 3743, 3752/BTC-HCNS ngày 2/4/2008)

Thực hiện kiến nghị của một số cơ quan, đơn vị để phù hợp với tình hình thực tế, ngày 31/10/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 127/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 của Bộ Tài chính quy định về chế độ công tác phí, chế hộ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập và Thông tư số 57/2007/TT-BTC ngày 11/6/2007 của Bộ Tài chính quy định chế độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào lạm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước. Trong đó, đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung chi, mở rộng thẩm quyền quyết định của các bộ, ngành và địa phương trong việc quy định cụ thể mức chi công tác phí, hội nghị, tiếp khách tại địa phương cho phù hợp với khả năng ngân sách và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.



35/ Cử tri tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long kiến nghị: “Đề nghị bỏ các khoản thu lệ phí khi người dân đến các cơ quan hành chính làm các thủ tục vì cơ quan hành chính lập ra là để phục vụ nhân dân”.

Trả lời: (tại công văn số 3780/BTC-CST ngày 2/4/2008)

Công việc quản lý nhà nước có thu lệ phí hay không thu lệ phí do Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Theo quy định của Pháp lệnh phí và lệ phí ngày 28/8/2001 thì chỉ thu lệ phí đối với các công việc có tên trong Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh phí và lệ phí, gồm có 42 khoản trong 5 lĩnh vực quản lý nhà nước, cụ thể là:

- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân có 7 khoản.

- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản có 8 khoản.

- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến sản xuất, kinh doanh có 18 khoản.

- Lệ phí quản lý nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia có 3 khoản.

- Lệ phí quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác có 6 khoản.

Việc thu lệ phí đối với một số công việc quản lý nhà nước là cần thiết. Khoản thu này rất nhỏ, không nhằm mục đích bù đắp chi phí mà chỉ để phục vụ công tác quản lý nhà nước, đảm bảo công bằng khi cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các công việc quản lý nhà nước theo nhu cầu của mọi tổ chức, cá nhân (người nào yêu cầu cơ quan nhà nước thực hiện nhiều công việc thì phải nộp lệ phí nhiều hơn người có ít yêu cầu; người không yêu cầu thì không phải nộp). Tuy nhiên, trong số các khoản thu lệ phí có một số hoạt động mà tất cả người dân đều phải thực hiện theo yêu cầu của cơ quan nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước, như lệ phí hộ tịch, hộ khẩu đối với hoạt động đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, chứng minh nhân dân... lần đầu hoặc cấp mới, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ quyết định miễn đối với một số khoản lệ phí này (Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg ngày 01/11/2007), chỉ thu đối với các hoạt động mà cơ quan nhà nước thực hiện theo yêu cầu của người dân như: cấp bản sao, chứng thực, công chứng, cấp đổi, xác nhận tính pháp lý của các giấy tờ có liên quan. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đang phố hợp với các bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết 5 năm việc triển khai thực hiện Pháp lệnh Phí, lệ phí để báo cáo Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh này, trong đó có nghiên cứu để đề nghị bãi bỏ những khoản thu phí, lệ phí không cần thiết, không phù hợp với thực tế.



36/ Cử tri tỉnh Cao Bằng, Hòa Bình, Quảng Bình, Vĩnh Long kiến nghị: “Tại điểm 1, Thông tư số 116/1998/TT-BTC ngày 19/8/1998 của Bộ Tài chính có quy định kinh phí hoạt động của Hội người cao tuổi được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần cho những hoạt động cần thiết của Hội theo nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao và khả năng ngân sách hàng năm. Trên thực tế, Hội người cao tuổi cấp xã, nhất là các xã miền núi khó khăn không huy động được các nguồn kinh phí đóng góp, lại chưa được ngân sách nhà nước hỗ trợ nên hoạt động rất khó khăn. Đề nghị Bộ có quy định cụ thể mức hỗ trợ kinh phí hàng năm từ ngân sách nhà nước cho Hội người cao tuổi các cấp”.

Trả lời: (tại công văn số 3745, 3746, 3747, 3743, 3754, 3744/BTC-HCSN ngày 2/4/2008)

Hội người cao tuổi Việt Nam là tổ chức xã hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước. Theo phân cấp quản lý ngân sách quy định tại Điều 21, Điều 24, Điều 25 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước trung ương hỗ trợ các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp Trung ương; kinh phí hỗ trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp Trung ương; kinh phí hỗ trợ cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở địa phương do Hội đồng nhân dân quận, huyện, tỉnh, thành phố quyết định tùy theo điều kiện và khả năng của từng địa phương.

Tại điểm 2, Thông tư số 116/1998/TT-BTC ngày 19/8/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn công tác quản lý tài chính đối với Hội người cao tuổi đã quy định rõ nội dung chi từ nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho Hội người cao tuổi các cấp theo từng cấp ngân sách, trong đó có cấp xã để tạo điều kiện cho Hội có nơi sinh hoạt và kinh phí hoạt động. Theo quy định tại điểm 8, Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước, định mức phân bổ chi NSNN cho các địa phương đã tính hệ số ưu tiên lĩnh vực chi quản lý hành chính đối với khu vực khó khăn thuộc miền núi, vùng đồng bào dân tộc ở vùng đồng bằng, vùng cao, hải đảo, trong đó bao gồm kinh phí chi hoạt động của Hội người cao tuổi.

37/ Cử tri thành phố Hà Nội và tỉnh Gia Lai kiến nghị: “Cử tri cho rằng khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất người dân phải nộp một khoản tiền rất lớn, nhiều người không có tiền để nộp. Đề nghị Bộ xem xét lại vấn đề này”.

Trả lời: (tại công văn số 3779/BTC-CST ngày 2/4/2008)

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính như sau:

- Lệ phí trước bạ: Thu đối với trường hợp được Nhà nước giao đất phải nộp tiền sử dụng đất, theo mức thu bằng 1% giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành: đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thì không phải nộp lệ phí trước bạ.

- Lệ phí địa chính: Thu khi lấy giấy chứng nhận. Mức thu do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng tối đa không quá 25.000 đồng/giấy đối với cá nhân, hộ gia đình và không quá 100.000 đồng/giấy đối với tổ chức.

- Về nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tùy thuộc vào 1 trong 2 trường hợp sau:

+ Đối với trường hợp được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất lần đầu thì phải nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất (nộp một trong hai khoản). Trong đó: tiền sử dụng đất là khoản thu đối với trường hợp được nhà nước giao đất phải nộp tiền sử dụng đất, với mức thu bằng 100% giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Tiền thuê đất là khoản thu đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất, với đơn giá thuê (cơ bản) 1 năm bằng 0,5% giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.

+ Đối với trường hợp đang sử dụng đất thì phải nộp tiền sử dụng đất hoặc thuế chuyển quyền sử dụng đất (nộp một trong hai khoản). Thuế chuyển quyền sử dụng đất thu đối với trường hợp đang sử dụng đất, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do mua bán trao tay trước đây (có một trong các giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng trên giấy tờ đó ghi tên người khác), nay theo Luật Đất đai năm 2003 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mức thu thuế chuyển quyền sử dụng đất là 2% giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành đối với nông nghiệp và 4% đối với đất phi nông nghiệp. Các trường hợp khác thực hiện nộp tiền sử dụng đất tùy từng trường hợp thực tế đang sử dụng mà sẽ nộp 50% hoặc 100% giá đất được cấp giấy chứng nhận hoặc nộp tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa tiền sử dụng đất giữa tiền sử dụng đất phải nộp của các loại đất khi chuyển mục đích sử dụng đất.

Đối với đất xây dựng nhà ở của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được miễn tiền sử dụng đất; đất trong hạn mức đất ở được giao của hộ gia đình nghèo thì được giảm 50% tiền sử dụng đất.

Trong thời gian qua, có ý kiến phản ánh rằng do nghĩa vụ tài chính lớn nên nhiều người không nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bộ Tài chính đã khảo sát thực tế tại một số địa phương và yêu cầu cơ quan chuyên môn báo cáo tình hình của các tỉnh thành trên cả nước. Qua khảo sát và báo cáo của các địa phương cho thấy nguyên nhân chính của việc cấp giấy chứng nhận chậm không phải do thực hiện nghĩa vụ tài chính mà do các nguyên nhân khác (chiếm hơn 88%). Tuy nhiên, tại một số địa phương như Quảng Ninh, Tiền Giang việc cấp giấy chứng nhận còn chậm do nguyên nhân về tài chính là chủ yếu.

Để giảm bớt nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Bộ Tài chính đã và đang phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền sửa đổi các văn bản hiện hành. Về chính sách thu tiền sử dụng đất, Chính phủ đã cho phép ghi nợ đối với trường hợp chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất (Điều 5, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ). Về thuế chuyển quyền và lệ phí trước bạ, Bộ Tài chính đã đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về vấn đề này theo hướng khuyến khích người dân thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất, đồng thời có chính sách ghi nợ các khoản nghĩa vụ tài chính đối với các trường hợp chưa đủ khả năng nộp, chính sách miễn giảm đối với hộ nghèo, ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.



38/ Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: “Đề nghị Bộ Tài chính tăng thuế suất đối với hoạt động khai thác khoáng sản vì hiện nay thuế suất đối với các hoạt động này rất thấp”.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương