LỜi giới thiệu bối cảnh lịch sử



tải về 0.64 Mb.
trang4/9
Chuyển đổi dữ liệu09.05.2018
Kích0.64 Mb.
#37853
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Chương X

Đến đây ta đã tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên: Có phải nghệ thuật tích lũy tài sản là một nghệ thuật thuộc phạm vi của người quản trị gia đình và của nhà lãnh đạo chính trị, hay chỉ là những tài sản mà người ta có thể đếm được? Vì khoa chính trị học không dạy nhà lãnh đạo chính trị cách thức tích lũy tài sản, mà dạy cách sử dụng sản vật từ thiên nhiên cung ứng cho con người từ đất đai, biển cả, hay từ những nguồn khác làm thực phẩm. [Cho nên,] trong giai đoạn này, bổn phận của người quản trị hộ gia đình là quản trị hữu hiệu những gì mà thiên nhiên cung cấp; ta có thể so sánh nghệ thuật quản trị của người chủ hộ với nghệ thuật dệt vải, không phải là làm ra vải mà là sử dụng vải vóc như thế nào, và biết phân biệt loại nào là tốt, sử dụng được, và loại nào là xấu, không dùng được vào việc gì. Nếu không phải như vậy thì thật khó mà hiểu được là nếu nghệ thuật tích lũy của cải được xem là một phần của nghệ thuật quản trị gia đình, thì tại sao nghề thuốc lại không được xem là một phần của nghệ thuật quản trị gia đình, vì chắc chắn là các thành viên của gia đình cũng cần có sức khỏe, như cần các nhu yếu phẩm khác. Có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này, thứ nhất người quản trị hộ gia đình cũng như của người lãnh đạo quốc gia có bổn phận lo cho sức khỏe của các thành viên, nhưng quan điểm thứ hai lại cho rằng đó là bổn phận của người y sĩ. Tương tự như vậy, nghệ thuật tích lũy tài sản, hiểu theo nghĩa thứ nhất, là công việc của người quản trị gia đình, và hiểu theo nghĩa thứ hai, nghệ thuật này chỉ là một nghệ thuật phụ thuộc. Nhưng như tôi đã nói, hiểu một cách đúng đắn, các phương tiện [cần thiết] cho đời sống đã được thiên nhiên cung cấp sẵn cho con người rồi, bởi vì nhiệm vụ của thiên nhiên là cung cấp dưỡng chất cho các sinh vật, như ta thấy thực phẩm cho con cái của các loài động vật đều từ dưỡng chất của con vật mẹ làm ra. Như thế, nghệ thuật tích lũy tài sản từ cây trái và thú vật luôn luôn là một nghệ thuật tự nhiên.

Có hai loại tích lũy tài sản, như tôi đã trình bày; một loại là một bộ phận của quản trị gia đình, loại kia là buôn bán: loại thứ nhất là loại đáng được khen ngợi và cần thiết; loại thứ hai đáng bị khiển trách vì nó không tự nhiên [như từ thực vật hoặc động vật], và là sự lợi dụng giữa con người với nhau. Sự cho vay lấy nặng lãi là hình thức đáng bị khinh ghét nhất, và ta có lý do chính đáng nhất để khinh ghét như vậy, vì đó là sự kiếm lời từ tiền bạc, chứ không phải từ bản chất tự nhiên của tiền bạc [dùng để trao đổi hàng hóa]. Và danh từ tiền lời có nghĩa là tiền đẻ ra tiền vì con cái ắt phải giống cha mẹ. Do đó, trong tất cả mọi phương thức tích lũy tài sản, cho vay lấy lời là phương thức phản tự nhiên nhất.


 

  Chương XI

Tới đây chúng ta đã bàn khá đủ về lý thuyết tích lũy tài sản, và sau đây sẽ bàn về phần thực tiễn ứng dụng của lý thuyết này. Các vấn đề tương tự như vấn đề này rất đáng bàn luận về phương diện triết lý, nhưng về phương diện thực tiễn thì lại đáng chán và không hào hứng gì lắm khi thảo luận. Các phần hữu ích của nghệ thuật tích lũy tài sản gồm có: thứ nhất là kiến thức về gia súc-nuôi loại nào thì có lợi nhất, nên nuôi ở đâu, và nuôi như thế nào-thí dụ, loại ngựa nào, loại trâu bò nào hay các loại gia súc nào là loại có khả năng mang lại lợi nhuận. Ta nên biết loài nào có giá hơn, và loài gia súc nào có giá nhất trên loại đất đai đặc thù nào đó, vì có loài sinh sản tốt hơn trên vùng đất này, loài khác trên vùng đất khác. Thứ hai là nghề nông, [để xem với vùng đất nào thì] làm vườn hay làm ruộng có lợi hơn, và còn nào là nuôi ong hay nuôi cá, hoặc các loại gia cầm nào có lợi cho con người. Đây là sự phân chia đúng đắn của nghệ thuật tích lũy tài sản và cần được nghiên cứu trước.

Còn về nghệ thuật tích lũy tài sản kia, tức là việc trao đổi hàng hóa, cũng chia làm nhiều loại; sự phân chia đầu tiên và quan trọng bậc nhất là thương mại (gồm có ba hoạt động-cung cấp tàu thuyền (vận chuyển đường thủy), vận chuyển hàng hóa (đường bộ), và trưng bày hàng hóa ra khuyến mãi-những hoạt động này khác nhau, có loại có lời hơn, có loại lại an toàn hơn); loại thứ hai là cho vay lấy tiền lời; và loại thứ ba là làm thuê lấy tiền. Loại thứ ba này gồm có những người thợ thủ công làm nghề chuyên môn, và những người không có nghề chuyên môn cho thuê sức lao động.



Ngoài ra còn một hoạt động tích lũy tài sản thứ ba nữa, hoạt động này nằm giữa thương mại và hoạt động tự nhiên đầu tiên. Hoạt động này cũng liên quan đến trao đổi; đó là các kỹ nghệ khai thác tài nguyên thiên nhiên, như khai thác khoáng sản hoặc khai thác lâm sản. Mặc dù hoạt động này không đem lại thực phẩm nhưng cũng đem lại lợi nhuận. Nghệ thuật khai thác khoáng sản tự nó cũng chia làm nhiều ngành vì có nhiều loại khoáng sản trong lòng đất. Tôi đã bàn một cách tổng quát về các loại nghệ thuật tích lũy của cải; khi thực hành có lẽ sẽ cần phải có sự nghiên cứu tỉ mỉ hơn, nhưng bàn rộng về đề tài sẽ làm một số người chán ngán. [Nói vắn tắt,] những nghề đòi hỏi nhiều kỹ năng là những nghề ít may rủi nhất: nghề nguy khó nhất là những nghề có thể mang lại thương tích, nghề hạ tiện nhất là những nghề lao động chân tay, và nghề tầm thường nhất là những nghề không đòi hỏi sự xuất sắc. Nhiều người đã viết về các đề tài này, như Chares người xứ Paros và Apollodorus người xứ Lemnos đã viết về cách canh tác ruộng bắp và vườn nho và ô-liu; các đề tài khác cũng có nhiều người viết; ai muốn tìm hiểu thêm về các đề tài này có thể tham khảo các sách vở nói trên. Ta cũng nên thu thập các câu chuyện còn rải rác về gương thành công của những người tạo dựng được tài sản; điều này rất có ích cho những người xem trọng nghệ thuật làm giàu. Thí dụ như giai thoại về Thales,1 một triết gia người xứ Miletus, đã sáng chế ra một phương pháp làm ra nhiều tiền, phương pháp ai cũng áp dụng được hết, nhưng ai cũng cho là Thales sáng chế ra vì ông nổi tiếng là người khôn ngoan. [Lúc đầu,] ai cũng thấy Thales là người nghèo khổ, và chế diễu sự vô ích của triết học. Giai thoại kể rằng nhờ vào khả năng xem thiên văn, từ mùa đông năm trước Thales đã biết rằng mùa hè sang năm ô-liu sẽ được mùa, cho nên với chút ít tiền dành dụm được ông đã đặt cọc thuê hết tất cả các máy ép dầu ô-liu trong vùng Chios và Miletus mà chẳng có ai thèm để ý và cạnh tranh. Khi đến mùa thu hoạch, ô-liu quả nhiên được mùa và nhu cầu ép dầu tăng vọt; đến lúc đó Thales mới cho thuê lại các máy ép dầu theo giá mình định và kiếm được thật nhiều tiền. Do đó, Thales đã chứng minh cho cả thế giới biết là các triết gia có thể làm giàu một cách dễ dàng, nhưng đó không phải là hoài bão của họ. Giai thoại này được truyền tụng để minh chứng cho sự khôn ngoan của Thales, nhưng như tôi đã nói, cách thức làm giàu của ông ai cũng áp dụng được hết, và đó không gì khác hơn là tạo ra sự độc quyền. Phương thức này cũng được các thị-quốc áp dụng khi thiếu tiền; họ tạo ra sự độc quyền cung cấp [hàng hóa]. Có một thương nhân xứ Sicily [cư ngụ ở Syracus] có rất nhiều tiền nên mua hết tất cả sắt trong các mỏ sắt; sau đó khi thương nhân các nơi đến mua sắt, vì là người bán duy nhất, và không cần phải tăng giá lên nhiều thương nhân này cũng kiếm lời được 200 phần trăm. Khi Dionysus, vua xứ Syracus, biết chuyện này bèn đuổi người thương gia này ra khỏi Syracus nhưng cho mang theo hết của cải, vì Dionysus nghĩ rằng thương nhân này đã nghĩ ra một cách kiếm nhiều tiền nhưng cách thức này làm thiệt hại cho quyền lợi của Syracus. Thương gia này cũng khám phá ra phương cách của Thales và cả hai đã tính toán để tạo sự độc quyền cho chính họ. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng cần biết đến các điều này, vì một nước vẫn thường thiếu hụt tiền bạc và [nhà nước] cần đến những phương thức kiếm tiền này còn hơn các chủ gia đình (tư nhân) nữa. Đó là lý do một số người hoạt động chính trị chú tâm đến các vấn đề tài chánh.

[1] Thales (624-546 BC)là một triết gia trong nhóm Thất Hiền Hy Lạp. Ông cũng là người đề ra định lý Thales trong Hình học về tương quan giữa các cạnh của hai tam giác đồng dạng. Thất Hiền gồm có: Thales, Solon, Chilon, Pittacus, Bias, Cleobulus, và Periander.


 

  Chương XII

Trong nghệ thuật quản trị hộ gia đình, ta đã thấy là có ba phần-một là sự điều khiển của chủ nhân đối với nô lệ, phần này đã bàn qua rồi, một phần là vai trò của người cha, và phần thứ ba là vai trò của người chồng. Người chồng và người cha là người có thẩm quyền trên vợ và con. Cả vợ và con là những người tự do trong gia đình, nhưng thẩm quyền của cha đối với con khác với của chồng đối với vợ. Đối với con cái, người cha có quyền như nhà vua đối với thần dân; còn đối với vợ, người chồng có quyền như người lãnh đạo đối với công dân. Dù có nhiều trường hợp ngoại lệ so với trật tự do thiên nhiên sắp đặt, nhưng người nam thì do bản chất thiên nhiên vẫn thích hợp hơn người trong cương vị chỉ huy, cũng như người lớn tuổi và trưởng thành (cả về thể chất và tinh thần) phải khá hơn người trẻ tuổi còn non nớt. Nhưng trong hầu hết các nhà nước do hiến pháp tạo nên, mọi công dân đều là những người vừa cai trị vừa bị trị, vì ý tưởng của nhà nước hiến định ngụ ý rằng mọi công dân đều bình đẳng từ bản chất, và không có gì khác nhau hết. Tuy nhiên, khi có người cai trị và người bị trị, thì người cai trị muốn tạo ra một sự khác biệt về hình thức, danh xưng và chức vị được kính trọng, như giai thoại về cái chậu rửa chân bằng vàng của Amasis.1 Mối quan hệ giữa người nam và người nữ là mối quan hệ giữa nhà lãnh đạo chính trị với các công dân, nhưng sự bất bình đẳng vẫn luôn luôn hiện diện. Mối quan hệ giữa cha và con là mối quan hệ của vua với thần dân, uy quyền của người cha xuất phát từ tình yêu thương [đối với con cái] và sự kính trọng tuổi tác của con cái đối với cha mẹ. Do đó, Homer đã rất có lý khi gọi Zeus là "cha của thần thánh và của con người," vì Zeus là vua của tất cả. Một vị vua đương nhiên phải cao cả hơn thần dân của mình, nhưng nhà vua phải cùng một giống với thần dân, đó cũng là quan hệ giữa người già người trẻ, giữa cha và con.

[1] Amasis là một vị vua nổi tiếng của Ai Cập. Nhờ công hãn mã nên Amasis lên được ngôi vua. Tuy nhiên, vì xuất thân bần hàn, ông không được thần dân nể phục. Amasis có một chiếc chậu bằng vàng dùng để rửa chân, quan khách khi được mời dự tiệc cũng thường rửa chân trong chiếc chậu này. Sau một thời gian, Amasis ra lệnh đập chiếc chậu này ra rồi dùng số vàng đó đúc thành tượng một vị thần, và đem tượng thần để trước ngọ môn. Dân chúng khắp nơi lũ lượt đến chiêm bái. Thấy như vậy, Amasis bèn triệu tập triều đình và nói cho họ biết gốc tích bức tượng đó từ chiếc chậu rửa chân mà ra, cũng giống như ông xuất thân bần hàn, nhưng nay đã thành vua và phải được kính trọng (Herodotus II. 172).


 

Chương XIII

Như vậy, ta thấy thật rõ ràng là sự quản trị gia đình quan hệ mật thiết với con người hơn là việc tích lũy tài sản vô tri, và với các điều kiện làm tốt đẹp cho con người hơn là với vật chất mà ta gọi là tài sản, cũng như với đức hạnh của người tự do hơn là đối với nô lệ. Một câu hỏi cần được nêu lên ở đây: liệu kẻ nô lệ có những đức tính nào cao hơn là những đặc tính cần thiết như những phương tiện để làm những công việc lao động chân tay-những đức hạnh như sự tự chủ, can đảm, công bằng, và những đức tính tương tự. Hay là ngoài những công việc lao động chân tay kẻ nô lệ không có đức tính nào khác? Trả lời theo kiểu nào đi nữa, ta cũng vấp phải một sự khó khăn; vì nếu những kẻ nô lệ có đức hạnh, thì họ khác những người tự do ở chỗ nào? Mặt khác, vì tất cả đều là con người và con người đều có lý tính, cho nên thật là vô lý khi bảo kẻ nô lệ không có đức hạnh. Vấn đề này cũng tương tự như vậy đối với phụ nữ và trẻ con: liệu phụ nữ và trẻ con có được tính tự chủ, can đảm và công bằng hay không? Như vậy, một cách tổng quát, ta có thể nêu lên câu hỏi là người cai trị và kẻ bị trị-cả hai đều do trời sinh ra như vậy, chứ không vì yếu tố nào khác-về đức hạnh có gì khác nhau không? Nếu ta bảo rằng họ cùng có sự cao quý của các đức tính, thì tại sao người này lại luôn luôn cai trị, còn kẻ kia lại bị trị? Ta không thể viện lý do là họ tuy có cùng các đức tính nhưng khác nhau về mức độ-kẻ có nhiều, người có ít; bởi vì sự khác nhau không phải vì mức độ mà hoàn toàn là vì người cai trị có một đức tính khác với kẻ bị trị. Có người lại lập luận rằng sở dĩ có người cai trị và kẻ bị trị vì người cai trị có đức hạnh còn kẻ bị trị thì không. Lập luận này thật là kỳ lạ! Bởi vì nếu người cai trị là kẻ nóng nảy, bất công, thì làm sao mà y lại có thể cai trị tốt được? Nếu người bị trị cũng thế thì làm sao mà y có thể vâng phục cho tốt được? Bất cứ kẻ nào mà phóng đãng hoặc hèn nhát, chắc chắn kẻ đó không thể chu toàn bổn phận của mình được. Như vậy, ta phải kết luận rằng cả người cai trị và kẻ bị trị cùng phải có đức hạnh, nhưng đức hạnh cũng có nhiều loại khác nhau.

Tới đây, chính bản chất của tinh thần sẽ giúp ta hiểu được vấn đề. Trong bản chất của tinh thần có hai phần, một phần luôn luôn chỉ đạo, còn phần kia luôn luôn tùng phục; đó là phần thuộc về lý tính (luôn luôn chỉ đạo), và phần phi-lý tính. Hiển nhiên là nguyên tắc này được áp dụng một cách tổng quát và mọi điều đều phải tuân theo quy luật tự nhiên này. Nhưng cách thức cai trị khác nhau; người tự do cai trị kẻ nô lệ theo phương cách khác với người nam đối với người nữ, và khác với cách người lớn đối với trẻ con. Mặc dù mọi người đều có cả hai phần khác nhau của tinh thần, nhưng mỗi người lại có những phần này không giống nhau. Kẻ nô lệ cũng có lý tính, nhưng hoàn toàn không có khả năng suy xét tường tận;1 phụ nữ có khả năng này nhưng lại không có quyền, và trẻ con có khả năng này, nhưng khả năng này chưa được phát triển. Như thế ta phải giả thiết là mọi người đều có các đức hạnh, nhưng mỗi hạng người có đức hạnh đến mức cần thiết để làm nhiệm vụ của mình mà thôi. Như vậy, người cai trị phải có đức hạnh tuyệt hảo (chữ in nghiêng của người dịch), vì nhiệm vụ của người cai trị, một cách tuyệt đối, đòi hỏi phải là một bậc thầy có kỹ năng tuyệt hảo, và lý tính chính là kỹ năng đó;2 còn những người khác chỉ cần có đức hạnh đến mức mà họ cần mà thôi. Hiển nhiên, ai cũng có đức hạnh, nhưng tính tự chủ hoặc lòng dũng cảm hay tính công bình của người nam và người nữ, như Socrates nói, không giống nhau. Lòng can đảm của người nam thể hiện qua sự chỉ huy, còn ở người nữ qua sự vâng phục. Và điều này cũng đúng với các đức hạnh khác, vì nếu ta quan sát thật tỉ mỉ [các đức hạnh này], ta sẽ thấy thật rõ ràng. Còn những ai mà cho rằng đức hạnh gồm có các tính tốt của tâm hồn, hoặc bao gồm trong các hành động đúng đắn, hay những điều tương tự, đều là tự dối mình. Có một cách khác, hay hơn và đơn giản hơn cách đưa ra một định nghĩa tổng quát về đức hạnh, là cách do Gorgias đề nghị; đó là liệt kê các đức hạnh khác nhau. Mọi hạng người đều có những đặc tính, thí dụ như đối với phụ nữ thì Sophocles3 nói: "Im lặng là sự vinh quang của phụ nữ," nhưng sự vinh quang này không giống như sự vinh quang của phái nam. Còn đối với trẻ con, vì non nớt nên những đức hạnh của nó chưa được phát triển như khi đã trưởng thành, cho nên phải tùy vào sự hướng dẫn của cha mẹ cho đến khi khôn lớn. Tương tự như vậy, đức hạnh của kẻ nô lệ tùy thuộc vào chủ nhân của chúng.

Đến đây, ta đã thấy kẻ nô lệ là những kẻ hữu dụng để cung cấp những nhu cầu cần thiết cho đời sống. Cho nên, kẻ nô lệ chỉ cần một số đức tính nào đó để giúp cho họ không bị sự hèn nhát hoặc thiếu tự chủ ngăn trở khiến họ không thể chu toàn bổn phận. Nếu những điều ta vừa nói là đúng, thì những người thợ chẳng lẽ cũng không cần có đức hạnh hay sao? Vì họ cũng thường chểnh mảng trong công việc vì thiếu tự chủ! Trong hai trường hợp này có một sự khác biệt lớn lao. Đời sống của kẻ nô lệ lệ thuộc vào đời sống của chủ nhân, còn người thợ chỉ lệ thuộc vào người chủ thuê họ làm việc trong công việc đó mà thôi. Kẻ nô lệ thuộc vào hạng người do thiên nhiên định như vậy, còn người thợ đóng giày hay các nghề khác tự chọn làm các nghề này. Do đó, ta thấy người chủ gia đình phải tạo cho kẻ nô lệ những đức hạnh cần thiết để làm tốt nhiệm vụ của họ, khác với người quản trị ra lệnh cho kẻ nô lệ làm bổn phận.4Vì vậy, ta có thể không đồng ý với những kẻ cho rằng không nên trò chuyện với nô lệ mà chỉ cần ra lệnh thôi là đủ rồi, vì nô lệ cần được nhắc nhở nhiều hơn là trẻ con.

Đề tài này đã được bàn khá đầy đủ. Khi ta bàn đến các mô hình chính quyền khác nhau, ta sẽ bàn thêm về mối quan hệ giữa chồng và vợ, cha và con, các đức hạnh khác nhau, và các điều tốt, xấu trong các quan hệ này cùng những cách thức để đạt được điều tốt và tránh đi điều xấu. Vì mỗi gia đình là một phần tử của nhà nước, và mhững mối quan hệ này là những phần trong gia đình, và đức hạnh của phần tử cũng liên hệ đến đức hạnh của tổng thể, cho nên phụ nữ và trẻ con phải được huấn luyện qua giáo dục mà mục tiêu là cơ cấu chính trị. Đức hạnh của họ sẽ góp phần tạo thành đức hạnh của nhà nước; thật vậy, trẻ con sẽ trở thành những công dân và phụ nữ chiếm tới một nửa số người tự do trong đất nước.

Tới đây các vấn đề liên quan đến hộ gia đình-nô lệ, tích lũy tài sản-đã được bàn đầy đủ, những gì còn sót lại như hôn nhân và nuôi dạy con cái, sẽ được bàn tới trong các phần sau. Cho nên, ta sẽ kết thúc phần này và sang một phần mới. Trước hết, ta sẽ xem xét các lý thuyết khác nhau về mô hình nhà nước lý tưởng.

[1] Lý luận của Aristotle ở chỗ này không được ổn: Nếu kẻ nô lệ được xem là có tất cả những phần khác nhau của tinh thần-lý tính và phi-lý tính, thì tại sao chỗ này Aristotle lại phủ nhận điều này? Ở phần sau Aristotle có giải thích là kẻ nô lệ cũng có lý tính, biết phân biệt, nhưng chỉ đủ để tuân theo lời của chủ nhân mà làm việc (tức là khác nhau về mức độ). Điều này mâu thuẫn với lập luận của chính ông là người chủ và kẻ nô lệ có những loại đức hạnh khác nhau, chứ không phải có cùng một loại đức hạnh nhưng khác nhau về mức độ. (ghi chú của người dịch).

[2] Newman giải thích đoạn này bằng sự so sánh như sau: chức năng chữa bệnh được xem là chức năng "tuyệt đối" của một thầy thuốc khi chỉ thị và giám sát việc chữa bệnh của thuộc cấp. Hiểu theo nghĩa này thì chức năng của người cai trị đòi hỏi: (1) toàn bộ khả năng lý trí, gồm cả khả năng suy xét, và (2) toàn bộ đức hạnh mà khả năng lý trí cung cấp (theo Ernest Barker, sđd., trang 36).

[3] Sophocles, một nhà viết bi kịch và sử ca của Cổ Hy lạp (496 BC-406 BC), nổi tiếng với hai vở bi kịch Vua Oedipus và Antigone còn lưu truyền đến ngày nay.

[4] Người lãnh đạo có thể ủy nhiệm hay chia sẻ công việc cho cấp dưới, nhưng không thể uỷ nhiệm trách nhiệm của mình. Trong trường hợp này, chủ nhân không thể san sẻ trách nhiệm hay bổn phận hướng dẫn đạo đức cho nô lệ. Aristotle đã nhắc đến việc này trong Chương 7.



Chương I

Mục đích của chúng ta là xét xem, đối với những người có khả năng để thể hiện đời sống lý tưởng của họ, đâu là dạng thức tốt nhất cho một cộng đồng chính trị. Vì vậy chúng ta phải nghiên cứu không phải chỉ những cơ cấu chính trị hiện chúng ta đang có, mà còn các mô hình khác, gồm cả những cơ cấu đang hiện hữu trong những nước đang được cai trị khéo léo, và cả những cơ cấu lý tưởng do các nhà tư tưởng nổi tiếng tạo nên trên lý thuyết, để tìm ra đâu là cơ cấu chính trị tốt và hữu dụng cho con người. Xin đừng có ai cho rằng trên con đường tìm kiếm những mô hình lý tưởng đó chúng ta đang muốn tỏ ra mình là những người thông thái. Chúng ta tiến hành cuộc tìm kiếm này chỉ vì những cơ cấu chính trị mà chúng ta biết đều có nhiều khuyết điểm.

Ta sẽ bắt đầu từ khởi điểm tự nhiên của đề tài. Có ba chọn lựa có thể xảy ra: công dân của một nước hoặc là có chung mọi thứ, hoặc là không có chung thứ gì hết, hoặc là chỉ có chung một số điều nào đó thôi. Sự kiện công dân không có chung điều gì hết hiển nhiên là điều không thể xảy ra, vì cơ cấu chính trị là một cộng đồng, và cộng đồng thì, tối thiểu, phải có một chỗ chung-một thành phố ở một nơi chốn nào đó và mọi người cùng cư ngụ trong đó. Nhưng liệu một nước được cai trị khéo léo sẽ có chung nhau mọi điều hay chỉ có chung nhau một số điều nào đó? Bởi vì, như Socrates đã đưa ra mô hình nhà nước được Plato thuật lại trong cuốn Cộng Hòa Luận, theo mô hình này thì mọi công dân đều có chung của cải vật chất, và chung cả vợ và con nữa.1 Như thế thì tình trạng hiện tại của chúng ta và mô hình mới được đề nghị, cái nào tốt hơn?

[1] Đây chính là mô hình xã hội cộng sản nguyên thủy.

 

Chương II

Có rất nhiều khó khăn trong một cộng đồng mà mọi người đều có chung vợ con. Và các lập luận Socrates dùng không chứng minh được nguyên tắc căn bản làm nền tảng cho sự thành lập một cộng đồng như vậy. Hơn thế nữa, ngay cả khi cộng đồng được xem là phương tiện để đạt tới cứu cánh là thiết lập một nhà nước, thì mô hình này cũng không thực tế, và ta không thấy ông lý giải trong bất kỳ tài liệu nào. Ở đây tôi muốn nhắc tới tiền đề trong lý luận Socrates đưa ra: "một quốc gia càng đồng nhất chừng nào thì càng tốt chừng đó." Nhưng càng đồng nhất chừng nào thì lại không còn là quốc gia nữa. Sở dĩ như vậy vì bản chất của một quốc gia là đa nguyên, kết hợp bởi nhiều phần tử khác nhau. Để tiến tới đồng nhất thì quốc gia phải trở thành một gia đình, và từ gia đình muốn đồng nhất hơn nữa, thì phải rút lại còn cá nhân. Cho nên, dù ta có thể làm được, ta cũng không nên đạt đến sự đồng nhất như vậy, vì làm như thế tức là  phá hoại quốc gia. Cũng nên nhắc lại một quốc gia không phải chỉ là sự tập họp của nhiều người, mà là sự tập hợp của nhiều người khác nhau [in nghiêng do người dịch để nhấn mạnh], vì sự đồng dạng không tạo thành quốc gia. Một quốc gia không phải là một liên minh quân sự. Liên minh quân sự hữu dụng là nhờ ở số đông ngay cả khi không có sự khác nhau về chất lượng (vì mục đích chính là bảo vệ hỗ tương), cũng như quả cân nặng thì sẽ khiến đòn cân nghiêng nhiều hơn quả cân nhẹ, tương tự như vậy; một quốc gia khác với một bộ lạc [một bộ lạc giống như một liên minh quân sự có thể mạnh hơn vì đông người hơn, với điều kiện là không để cho dân chúng sống tản mác trong các làng mạc, nhưng quy tụ lại theo lối sống của Arcadia];1 vì các phần tử tạo thành quốc gia là những phần tử khác nhau, như tôi đã bàn trong cuốn Đạo Đức Học, sự thịnh vượng của một quốc gia nhờ ở sự đóng góp của mỗi phần tử cho quốc gia tương đương với những gì mà mỗi phần tử nhận được từ quốc gia.

Nguyên tắc này phải được tôn trọng ngay cả đối với những người tự do và bình đẳng, vì họ không thể cai trị cùng một lúc, mà phải thay nhau mỗi người một năm, hoặc theo một cách sắp xếp nào đó. Kết quả là tất cả đều cai trị; cũng giống như khi người thợ đóng giày và người thợ mộc thay đổi nghề nghiệp với nhau, và người thợ đóng giày hay người thợ mộc không phải luôn luôn theo đuổi nghề nghiệp của mình. Kết quả của nguyên tắc này là mọi người đều cai trị, giống như người thợ đóng giày và thợ mộc đổi nghề cho nhau, và không phải lúc nào cũng cùng con người đó tiếp tục làm thợ mộc hay thợ đóng giày. Và vì như thế tốt hơn cho mọi người nên trong chính trị cũng vậy, nếu có thể được thì những người giữ chức vụ nên tiếp tục giữ nhiệm vụ này. Nhưng nếu điều này không thể thực hiện được vì mọi công dân theo nguyên tắc đều bình đẳng, và nên cùng cai trị một lúc, thì một số nào đó sau thời gian giữ chức vụ nên từ nhiệm để cho số khác lên thay.2 Và như thế sẽ có một số người cai trị và một số bị cai trị. Tương tự như vậy, ngay cả khi cùng một số người cai trị, họ cũng phải giữ những nhiệm vụ khác nhau. Và như thế đã đủ để chứng minh là một quốc gia, từ bản chất, không thể nào đồng nhất được như một số học giả đề nghị.

Biến tất cả mọi người thành đồng nhất thay vì đem lại phúc lợi cao nhất cho quốc gia lại hóa thành tiêu diệt quốc gia. Còn có một quan điểm khác nữa mà ta cũng có thể dùng để chứng minh rằng cái chính sách quá khích biến mọi người trở nên đồng nhất như nhau không phải là một chính sách hay. Bởi vì gia đình đạt được mức độ tự túc cao hơn cá nhân, và quốc gia đạt được mức độ này cao hơn gia đình; nhưng quốc gia chỉ có thể hiện hữu nếu cộng đồng đủ rộng lớn và đa dạng để đạt tới trình độ tự túc. Do đó, nếu ta theo giả thuyết cho rằng mức độ tự túc càng cao chừng nào càng tốt chừng nấy cho sự tồn tại của một quốc gia, thì quốc gia càng đa nguyên chừng nào càng tốt chừng nấy.

[1] Arcadia là một vùng núi non hẻo lánh thuộc bán đảo Peleponesia ở Hy Lạp. Dân cư ở đây từ thời xa xưa sống bằng nghề chăn nuôi, nhàn hạ. Hiện nay Arcadia là một quận của Hy Lạp.

[2] Nguyên văn của đoạn này hơi khó hiểu, và bản dịch sang tiếng Anh dựa trên sự nhuận sắc của các học giả (ghi chú của Barker).

 



tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương