2.2. Nhóm máu hệ Rhesus (Rh): 2.2.1. Lịch sử phát hiện:
Năm 1939, Levine và Stetson đã phát hiện một kháng thể bất thường trong huyết thanh của một sản phụ có con bị bệnh vàng da tan máu, kháng thể này ngưng kết với hồng cầu của cha và con nhưng không làm ngưng kết hồng cầu của mẹ.
Bảng 6. Kháng nguyên của hệ Rh và các tên gọi khác nhau
Bằng số
|
ISBT
|
Wiener
|
Fisher và Race
|
Tỷ lệ người Châu Âu
|
Bằng số
|
ISBT
|
Wiener
|
Fisher và Wiener
|
Tỷ lệ ở người Châu Âu
|
RH1
|
004001
|
Rho
|
D (Rh0)
|
85
|
RH27
|
0040027
|
RH
|
|
30
|
RH2
|
004002
|
rh’
|
C
|
70
|
RH28
|
0040028
|
Goa, Gonzales
|
|
(2)
|
RH3
|
004003
|
rh“
|
E
|
30
|
RH29
|
0040029
|
|
hrB
|
100
|
RH4
|
004004
|
hr
|
C
|
80
|
RH30
|
0040030
|
|
|
<1
|
RH5
|
004005
|
hr“
|
e
|
98
|
RH31
|
0040031
|
|
|
98
|
RH6
|
004006
|
hr
|
Ce
|
64
|
RH32
|
0040032
|
|
|
<1
|
RH7
|
004007
|
rhi
|
Ce(f)
|
70
|
RH33
|
0040033
|
|
|
<1
|
RH8
|
004008
|
rhw1
|
CW
|
2
|
RH34
|
0040034
|
|
HrB
|
100
|
RH9
|
004009
|
rhx
|
Cx
|
<1
|
RH35
|
0040035
|
Bastiaan
|
|
<1
|
RH10
|
0040010
|
hrV
|
V(ces)
|
(2)
|
RH36
|
0040036
|
Bea
|
|
<1
|
RH11
|
0040011
|
rhw2
|
Ew
|
|
RH37
|
0040037
|
Evans
|
|
<1
|
RH12
|
0040012
|
rhG
|
G
|
<1
|
RH38
|
0040038
|
C-like
|
|
>99
|
RH13
|
0040013
|
RhA
|
|
85
|
RH39
|
0040039
|
Tar (targett)
|
|
<1
|
RH14
|
0040014
|
RhB
|
|
85
|
RH40
|
0040040
|
Ce-like
|
|
70
|
RH15
|
0040015
|
RhC
|
|
85
|
RH41
|
0040041
|
SeS
|
|
(2)
|
RH16
|
0040016
|
RhD
|
|
85
|
RH42
|
0040042
|
Crawford
|
HrH-like
|
<1
|
RH17
|
0040017
|
Hro
|
|
85
|
RH43
|
0040043
|
Nou
|
|
|
RH18
|
0040018
|
Hr
|
|
100
|
RH44
|
0040044
|
Riv
|
|
<1
|
RH19
|
0040019
|
HrS
|
|
100
|
RH45
|
0040045
|
Sec
|
|
|
RH20
|
0040020
|
|
VS (es)
|
98
|
RH46
|
0040046
|
Dav
|
|
|
RH21
|
0040021
|
|
CG
|
(2)
|
RH47
|
0040047
|
JAL
|
|
<1
|
RH22
|
0040022
|
|
CE
|
70
|
RH48
|
0040048
|
STEM
|
|
<1
|
RH23
|
0040023
|
|
Dw
|
<1
|
RH49
|
0040049
|
PFTT
|
|
<1
|
RH24
|
0040024
|
|
ET
|
<1
|
RH50
|
0040050
|
MAR
|
|
>99
|
RH25
|
0040025
|
|
c-like
|
30
|
RH51
|
0040051
|
BARC
|
|
<1
|
RH26
|
0040026
|
|
cE
|
80
|
RH52
|
700050
|
|
|
<1
|
OIa
|
|
|
|
<1
|
|
700053
|
|
|
<1
|
Năm 1940, Karl Lansteiner và Wiener miễn dịch lợn và thỏ bằng hồng cầu khỉ Rhesus và đã thu được một kháng thể mà gây ngưng kết với khoảng 85% hồng cầu người và họ đã gọi tên yếu tố đó là Rh, Wiener và Peters cũng đã nhận xét có sự xuất hiện kháng thể Rh ở những bệnh nhân Rh âm mà đã nhận máu Rh dương. Tuy nhiên người được công nhận phát hiện ra kháng nguyên D là Levine và cộng sự (1939-1940) [8], [11].
Năm 1941, thêm ba kháng nguyên của hệ Rh được phát hiện là C, E, c bởi Wiener, Race và Levine. Năm 1945, Mourant phát hiện thêm kháng nguyên e của hệ Rh. Cho đến nay khoảng 50 kháng nguyên khác nhau của hệ Rh đã được phát hiện, tuy nhiên kháng nguyên chính của hệ Rh vẫn là kháng nguyên D [1], [6], [7], [10], [11] . Bảng 6 trên đây trình bầy các kháng nguyên của hệ Rh và các đặc tính của chúng.
2.2.2 Đặc tính của hệ nhóm máu Rh
Cho đến nay khoảng 50 kháng nguyên của hệ Rh đã được phát hiện, tuy nhiên 5 kháng nguyên quan trọng nhất của hệ Rh vẫn là D, C, c, E, e tương ứng với 6 gen là D, d, C, c, E, e. Gen d chỉ được giả định trên lý thuyết vì người ta chưa phát hiện được kháng thể chống d. Các gen này được liên kết và tổ hợp với nhau để tạo ra các kiểu gen của hệ Rh được trình bầy trong bảng 7 dưới đây. Các kiểu phối hợp gen của hệ Rh ở các chủng tộc, vùng và nước khác nhau thì rất khác nhau, kiểu gen DCe/DCe chiếm tỷ lệ khá cao ở người Việt Nam (50-57%), trong khi đó kiểu gen này chỉ gặp 19 % ở người da trắng và 3% ở người da đen [6], [10].
Bảng 7. Một số kiểu kết hợp gen của hệ Rh theo phân loại của Fisher-Race và tần số xuất hiên (%) gặp ở một số chủng tộc, nước
Tên gene
Chủng tộc, nước
|
Tỷ lệ kiểu hình của hệ Rh (%)
|
DCe/DCe
|
DCE/Dce
|
DcE/DcE
|
DcE/Dce
|
Dce/Dce
|
dCe/dce
|
Da trắng
|
19,0
|
13
|
2
|
12
|
2
|
1
|
Da đen
|
3,0
|
4
|
1
|
16
|
42
|
1
|
Bạch Quốc Tuyên
(1991), n =100
|
50
|
29
|
2
|
1
|
|
|
Bùi Thị Mai An
(2006), n = 692
|
57,4
|
22,7
|
2,6
|
2,16
|
1,15
|
0,04
|
Kháng thể của hệ Rh hầu hết là kháng thể miễn dịch có bản chất là IgG, chúng có thể lọt qua đường hàng rào nhau thai. Kháng thể tự nhiên của hệ Rh rất hiếm gặp, người ta có thể gặp người có kháng thể IgM chống E nhưng với tỷ lệ rất thấp. Kháng thể của hệ Rh được sinh ra do quá trình miễn dịch bởi các kháng nguyên của hệ Rh thường do người có nhóm máu Rh âm nhận máu Rh dương hoặc do bất đồng nhóm máu mẹ con hệ Rh, mẹ nhóm máu Rh âm và con nhóm máu Rh dương. Kháng thể quan trọng nhất có ý nghĩa trên lâm sàng của hệ Rh là kháng thể D [2], [3], [5], [7], [10], [11], [12].
2.2.3. Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử nghiên cứu nhóm máu hệ Rh
Các kháng nguyên nhóm máu hệ Rh được mã hoá bởi các hình thái phối hợp khác nhau của hai gen tương đồng cao (RHD, RHCE), các gen này nằm trên cùng một NST tại các vị trí p 36.13-p 34.3. Mỗi một gen bao gồm 10 exons mà được mã hoá bởi một polypeptid gồm 417 a.a, các a.a. này sẽ giúp nối lipid với hồng cầu và có thể có cả chức năng vận chuyển, các kiểu hình của nhóm máu Rh phụ thuộc việc thay thế từ 32 đến 36 a.a để tạo thành sự khác biệt giữa các polypeptid RHCE và RhD. Năm kháng nguyên quan trọng của hệ Rh mà có ý nghĩa lâm sàng là D, C, c E, e. C/c và E/e là hai cặp kháng nguyên đối nhau được mã hoá bởi gen RHCE. Sự khác nhau của kháng nguyên E/e là do một a.a đơn ở vị trí 226, còn với kháng nguyên C/c lại là do sự kết hợp của 3 a.a. Kháng nguyên D được mã hoá bởi gen RHD, kháng nguyên D bao gồm nhiều epitopes khác nhau và những người mà hồng cầu D dương nhưng thiếu một hoặc nhiều epitopes được gọi là D từng phần và có thể vẫn tạo kháng thể D. Ngoài 5 kháng nguyên thường gặp, còn ít nhất 40 kháng nguyên riêng biệt khác thuộc nhóm máu Rh. Một số kháng nguyên này là kháng nguyên D từng phần mà có liên quan đến sự biến đổi gen hoặc sắp xếp lại gen RHCE vào RHD, hoặc RHD vào RHCE có thể xảy ra vì tính tương đồng cao của 2 gen này [1], [11].
Tần số xuất hiện người D âm là khá cao ở quần thể người châu Âu khoảng 20% và khá thấp trong một số quần thể người Châu Á. Tần số người Rh âm tại Việt Nam khoảng 0,03% [6].
Một trong những mối quan tâm của các phòng thí nghiệm lâm sàng là sự khác nhau của những người có nhóm máu D yếu hoặc D từng phần. Những người D yếu có thể không sinh kháng thể D nhưng những người có kháng nguyên D từng phần lại sinh kháng thể D VI, sự khác nhau này là do tính miễn dịch với kháng thể đơn dòng LOR-15C9 [1], [11].
Những người D âm có thể không bộc lộ với kháng nguyên D bởi truyền máu nhưng có thể bởi thai nghén. Điều thú vị là ở những người D âm, CE âm hoặc những người D dương (D từng phần) vẫn có thể hoặc không thể tạo ra kháng thể D.
Trên thực tế cho đến nay đã có rất nhiều kháng nguyên của hệ nhóm máu Rh đã được phát hiện như: DII, DIII, DVI, DVII, DFR, DBT, DNU ... tuy nhiên vẫn còn rất nhiều kháng nguyên của hệ Rh chưa được hiểu biết một cách đầy đủ, nhưng người ta đã biết chắc rằng sự thiếu hụt kháng nguyên Rh trên bề mặt hồng cầu của những cá thể Rh null và Rh mod là có liên quan đến sự biến đổi gen Rh50 [1], [11].
1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>1>
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |