Câu 1: Phân tích khái niệm tư tưởng hcm


 Quan niệm HCM về phẩm chất đạo đức của con người VN trong thời đại mới



tải về 356.36 Kb.
Chế độ xem pdf
trang14/20
Chuyển đổi dữ liệu09.01.2024
Kích356.36 Kb.
#56264
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20
TTHCM`

2. Quan niệm HCM về phẩm chất đạo đức của con người VN trong thời đại mới 
a) Trung với nước, hiếu với dân 
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi 
phối các phẩm chất khác. 
Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức 
truyền thống Việt Nam từ phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm 
chất bao trùm nhất: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ. Phẩm chất này được Hồ Chí Minh 
sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với dân”, đã tạo nên 


một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: "Đạo đức cũ như người 
đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững 
được dưới đất, đầu ngừng lên trời". Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước 
thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. 
Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”. 
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân" của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá 
trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống 
đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khi Hồ Chí 
Minh đặt vấn đề "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Nói 
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đảng và Chính phủ là "đầy tớ nhân 
dân" chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân", thì quan niệm về nước 
và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước, rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy, 
điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Trong Thư 
gửi thanh niên (1965), Người viết: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng "trung 
với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ 
thù nào cũng đánh thắng. Luận điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời kêu gọi hành động, 
vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu 
tranh cách mạng trước đây, hôm nay, mà còn lâu dài về sau nữa. 
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước, là 
phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách 
mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh". Hiếu với dân là phải thương dân, tin dân, 
thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, "hết lòng hết sức 
phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của 
nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng" ra lệnh ra oai"! 
b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư 
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt Môi của đạo đức cách mạng, 
đó là phẩm chất đạo đức cắt liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy gắn Chí 
Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn 
sách Đường cách mệnh cho đến bản Di chúc. 
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng 
không bao giờ làm mà lại bất nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. 
Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán tài bộ thực hiện làm gương cho nhân 
dân theo để lợi cho nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công 
vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân". 
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức 
truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa 
vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. 


“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai... Muốn cho chữ Cần có nhiều kết 
quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc". Cần tức là lao động cần cù Khôi siêng 
năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh 
sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, 
nguồn hạnh phúc của chúng ta”. 
"Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. CẦN 
với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người". Kiệm tức là tiết kiệm sức 
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; 
không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. "Tiết kiệm không phải là 
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng 
làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, 
cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ 
không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Hồ Chí Minh yêu cầu phải 
“Cần kiệm xây dựng nước nhà". 
Liêm là trong sạch, không tham lam... Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng 
như chữ KIỆM phải đi với chữ CẦN. CÓ KIỆM mới LIÊM được”; “Liêm là không tham 
địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. 
Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, 
ham làm, ham tiến bộ". 
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, 
thẳng thắn, tức là tà Chỉnh được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: "ĐỐI VỚI MÌNH - 
Chớ tự kiêu, tự đại... “ĐỐI VỚI NGƯỜI... Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh 
người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn... Phải thực hành chữ Bác - Ái... ĐỐI 
VỚI VIỆC Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà... việc thiện thì dù nhỏ 
mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh". 
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với 
nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để 
làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong 
các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính 
thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. 
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng, 
không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân 
tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên 
hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà 
đối với người, đối với việc”; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước... khi 
hưởng thụ thì mình nên đi sau". 
Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải thích: 
"Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền 
nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, 


có dịp “dĩ công vi tư. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu 
cho dân". 
Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu 
về vật chất, mạnh về tính thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ, Cần, kiệm, liêm, chính 
còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Để trở thành 
người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí 
Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người, giống như bốn 
mùa của trời, bốn phương của đất; "Thiếu một đức, thì không thành người". 
c) Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng 
sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với việc thể 
nghiệm chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình 
thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. 
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng 
mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh 
sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh 
phúc cho con người. 
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho 
những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột 
không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương như vậy 
thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa 
cộng sản. 
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn, 
là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người 
là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dẫn ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai 
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên 
nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức 
và là lý tưởng nhân văn của Người. 
Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường 
của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, 
anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt 
chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người khác; 
phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát 
huy tài năng, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là 
thái độ “dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Bằng 
hành động và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm 
người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, 
thiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu 


sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được. 
Trong Di chúc, Người viết: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. 
d) Tình thần quốc tế trong sáng 
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng 
sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, nhằm vào 
mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia - dân tộc. 
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần 
nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng. hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với 
giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân 
các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất 
bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sovanh, biệt lập 
và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự 
lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu gọi phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, 
đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các 
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế của Hồ 
Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng: 
"Quan sơn muôn dặm một nhà, 
Bốn phương vô sản đều là anh em!" 
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tinh 
thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu 
quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hòa bình 
cho nhân loại; đó là di sản thời đại vô giá của Người về hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát 
triển giữa các dân tộc. 

tải về 356.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương