CHƯƠng 1: thẻ thanh toán và những lợI Ích củA thẻ thanh toán trong nền kinh tế. Thẻ thanh toán


Nguyên nhân hạn chế việc phát triển thanh toán thẻ và thị trường thẻ thanh toán của Việt nam hiện nay



tải về 498.82 Kb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích498.82 Kb.
#13203
1   2   3   4   5   6
Nguyên nhân hạn chế việc phát triển thanh toán thẻ và thị trường thẻ thanh toán của Việt nam hiện nay:

Trở ngại lớn nhất khiến số lượng thẻ còn thấp so với tiềm năng thị trường là do tập quán sử dụng tiền mặt trong tiêu dùng của người dân Việt Nam vẫn còn phổ biến. Theo thống kê của tổ chức thẻ Visa International cho thấy, lượng cung tiền mặt trong lưu thông ở các nước phát triển chỉ 10-20%, trong khi đó các nước đang phát triển là 75-90%., thì riêng Việt nam, tiền mặt vẫn là chủ yếu, với trên 96% chi tiêu, tiêu dùng cá nhân được thực hiện theo phương thức này. Bản thân hệ thống ATM hiện nay ở Việt nam, hầu hết các giao dịch đều là rút tiền mặt, dù trên máy có nhiều tiện ích khác như chuyển khoản, thanh toán dịch vụ bảo hiểm, tiền điện nước, cưới phí điện thoại,…

Hành lang pháp lý chưa đồng bộ khiến cho hoạt động thanh toán thẻ trong nước gặp nhiều khó khăn. Các văn bản áp dụng hiện nay còn nhiều điểm chưa phù hợp, điển hình là các vấn đề liên quan đến hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng, các mức phí,… chưa rõ ràng, chưa thống nhất, chủ yếu do từng ngân hàng tự quy định khiến cho quyền lợi của chủ thẻ không được đảm bảo. Theo Cục trưởng Tạ Quang Tiến: “Nguyên nhân chủ yếu là vì Việt nam thiếu một cơ chế chỉ đạo, điều hành, không có một tổ chức đầu mối, vận động và tập hớp trong khi các ngân hàng thì không đồng thuận, mạnh ai nấy lo. Thậm chí, họ coi phát triển ATM là vũ khí cạnh tranh”. Hiện nay, vấn đề tội phạm trong lĩnh vực thẻ tương đối nhiều, nhưng Bộ luật Hình sự Việt nam vẫn chưa quy định tội danh và khung hình phạt cho những vi phạm trong lĩnh cực thanh toán thẻ.

Vấn đề an ninh trong thanh toán thẻ vẫn chưa được đảm bảo, gây mất lòng tin đối với nhiều khách hàng. Tình trạng dùng thẻ giả để rút tiền từ tài khoản thẻ của khách hàng vẫn chưa chấm dứt. Một phần do trình độ quản lý mạng thanh toán còn yếu, kỹ thuật sản xuất thẻ chưa cao. Hiện nay, ở Việt nam chủ yếu sử dụng thẻ từ, và bắt đầu manh nha dùng thẻ Chip, trong khi đó trên thế giới đã chuyển sang dùng thẻ Chip-thẻ thông minh theo chuẩn EMV thay thế cho thẻ từ, sản phẩm thẻ được gắn chip điện tử với bộ vi xử lý như một máy tính thu nhỏ đa chức năng và ứng dụng, có khả năng lưu trữ các thông tin quan trọng được mã hóa với độ bảo mật cao. Mặc khác, mạng thanh toán thẻ hiện nay của Việt nam chưa có hệ thống đường truyền riêng mà phải nhờ vào hệ thống mạng truyền của bưu điện, vì vậy các tín hiệu dễ bị lộ trong quá trình chuyển tải, tội phạm dễ xâm nhập và lợi dụng những hạn chế này để lấy cắp thông tin và tiền trong tài khoản thẻ của khách hàng.

Các ngân hàng thương mại chỉ mới chú ý đến mặt số lượng thẻ, quy mô thẻ. Để cạnh tranh thu hút khách hàng, không ít ngân hàng thương mại tặng thẻ không phí cho khách hàng, tức là không thu phí phát hành thẻ, mà chi phí để sản xuất phôi thẻ và các chi phí khác có liên quan ít nhất cũng đến 30.000 đồng/thẻ. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ thẻ thì không quan tâm đúng mức..Thậm chí, việc phát hành miễn phí thẻ cho khách hàng nhưng họ có sử dụng hay không thì ngân hàng thương mại không cần quan tâm. Trình độ và chất lượng dịch vụ thẻ của các ngân hàng thương mại Việt nam đang đi sau so với đòi hỏi thực tiễn và càng tụt hậu so với khu vực quốc tế. Qua quá trình tuyên truyền, quảng bá, thuyết phục khách hàng,… thì nay đại đa số các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và các cán bộ, công nhân, thậm chí là sinh viên đã nhận thấy tiện ích của dịch vụ thẻ. Song tiện ishc thực sự theo đúng bản chất của dịch vụ thẻ ATM thì các ngân hàng thương mại chưa đảm bảo. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng thương mại Việt nam vẫn mới chỉ chú ý đến hoạt động tín dụng bởi vì lĩnh vực kinh doanh này đem lại nguồn thu nhập chính (95-97%) cho ngân hàng thương mại. Trong khi đó, dịch vụ thẻ ATM chưa thu phí phát hành thẻ và một số ngân hàng chưa thu phí rút tiên mặt tại máy ATM, mà các ngân hàng thương mại mới kỳ vọng vào sử dụng tạm thời số dư tiền gởi không kỳ hạn với lãi suất thấp của chủ thẻ để trên tài khoản để cho vay mà thôi. Đối với các ngân hàng thương mại, số dư trên tài khoản thẻ không nhiề và thường biến động, nên nghiệp vụ thẻ đương nhiên lỗ. Do vậy, các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ và trung bình, cũng như hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần, phát triển dịch vụ thẻ mới có tính chất “phong trào” chứ chưa phải vì mục tiêu hiệu quả kinh doanh.

Về mặt kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, hiện nay mới chỉ có một số ngân hàng triển khai phần mềm hiện đại hóa ngân hàng. Đa số các ngân hàng còn lại vẫn sử dụng chương trình giao dịch cũ, không kết nối toàn quốc được khiến cho việc thanh toán thẻ chậm trễ, gặp nhiều khó khăn. Rồi hệ thống trang thiết bị như: máy ATM, máy đọc thẻ, máy cấp phép tự động mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ,… chưa đồng bộ, chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế và chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán thẻ hiện nay. Nguyên nhân là do chi phí đầu tư cao, trong khi đó tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại có hạn. Hiện nay, chi phí lắp đặt một máy ATM khoảng 20.000-30.000 USD, giá máy POS khoảng 800-900USD. Nếu như mỗi ngân hàng chạy đua lắp đặt một hệ thống thanh toán riêng thì chi phí bỏ ra rất lớn, vì vậy việc xây dựng một hệ thống thanh toán thống nhất toàn quốc là một việc làm cấp bách. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu thanh toán mà vẫn tiết kiệm được chi phí đầu tư.

Điều kiện thanh toán ở Việt Nam còn hạn chế khiến cho thẻ thanh toán không phát huy được hết tác dụng của nó, gây ra những bất lợi cho người sử dụng thẻ. Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được những nhu cầu thanh toán thẻ. Chủng loại máy ATM, công nghệ dịch vụ thẻ của các ngân hàng thương mại nhập khẩu hay mua của các hãng khác nhau, từ các quốc gia khác nhau, thế hệ máy khác nhau, nên khi kết nối bị trục trặc, chất lượng không tốt. Hầu hết các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, bách hóa, chợ,… tại Việt nam chưa lắp đặt các điểm chấp nhận thẻ (POS) , chưa quán triệt được phương thức thanh toán thẻ mà chủ yếu là sử dụng tiền mặt trong các khâu thanh toán. Chính vì thế mà rất nhiều tiện ích của thẻ thanh toán không phát huy hết tác dụng. Nhu cầu ngày một tăng cao, hạ tầng chưa đáp ứng kịp đã dẫn tới tình trạng một số hệ thống ATM bị quá tải vào những giờ cao điểm. Các ngân hàng thương mại chưa tổ chức đồng bộ các khâu trong dịch vụ thẻ, tức là chưa chú ý đến đào tạo trình độ chuyên môn cho các cán bộ vận hành, duy tu, bảo dưỡng, bảo trì và các dịch vụ khác có liên quan đến dịch vụ ATM. Việc tiếp quỹ, thay giấy in hóa đơn, giấy in nhật ký thường xuyên cho máy, xử lý sự cố cũng là một vấn đề nan giải khi hệ thống ATM được mở rộng. Nếu như ngân hàng thương mại có trình độ công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý, của nhân viên khá, chuyên nghiệp và thành thạo, lại có được trình độ giao tiếp, thái độ phục vụ của nhân viên tốt thì càng làm cho chất lượng dịch vụ của ngân hàng hoàn hảo hơn.

Các ngân hàng chưa có sự hợp tác, chia sẻ thông tin lẫn nhau, vẫn còn một số ngân hàng cạnh tranh nhau về phí phát hành, hạ tỷ lệ thanh toán qua cơ sở chấp nhận thẻ (POS),… để thu hút khách hàng. Do đó, gây khó khăn cho các ngân hàng khác trong việc xây dựng một chính sách hợp lý, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh do đầu tư cao nhưng doanh thu rất thấp.

Các liên minh thẻ đã hình thanh nhưng vẫn chưa thực sự có được sự thống nhất cao, hoạt động còn rời rạc, chưa liên kết được, điều này đã làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống máy ATM. Bên cạnh đó, do điều kiện cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, dẫn đến tình trạng nhiều ngân hàng chào mời và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thẻ đến cùng một đối tương khách hàng.

Việc cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ bị thu phí từ ngân hàng thanh toán khiến cho mạng lưới cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ không phát triển mạnh mẽ. Đứng ở góc độ chi tiêu, chủ thẻ có hai hoạt động chính là rút tiền mặt tại ngân hàng thanh toán hoặc tại máy ATM và thanh toán tại cơ sở chấp nhận thẻ. Cả hai hoạt động này ngân hàng với vai trò trung gian thanh toán đều thu phí. Với hoạt động rút tiền mặt thì chủ thẻ là người trực tiếp trả phí, còn nếu mua hàng tại cơ sở chấp nhận thẻ thì người trả phí lại là cơ sở chấp nhận thẻ. Vì vậy, nếu không có áp lực từ bên ngoài thì cơ sở kinh doanh cũng không ưa chuộng hình thức thanh toán qua thẻ.

Bên cạnh đó, thu nhập của người dân cũng là nhân tố tác động trực tiếp đến quyết định sử dụng thẻ ATM. Thông thường, những cá nhân và gia đình có thu nhập càng cao thì khả năng sử dụng thẻ càng nhiều. Việc sử dụng thẻ sẽ thuận tiện cho việc cất giữ các khoản thu nhập, thanh toán các hóa đơn và những chi tiêu phát sinh trong cuộc sống sinh hoạt. Những người có thu nhập cao thường yêu cầu những dịch vụ kèm theo thẻ cao hơn như hạn mức thấu chi, khả năng rút tiền tại các máy giao dịch tự động khác nhau,… Những người có thu nhập trung bình và thấp như đại bộ phận cán bộ, công chức sau khi tiền được trả vào tài khoản thì lại rút tiền mặt để phục vụ cho việc thanh toán. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế Việt Nam, việc phát triển kinh tế không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố, những sản phẩm thỏa mãn thiết yếu của dân cư vẫn chủ yếu được mua sắm ở chợ “tự do” cộng theo thói quen sử dụng tiền mặt, đơn giản, thuận tiện đã trở thành truyền thống và không dễ dàng thay đổi nhanh chóng được.

Những người lớn tuổi thường ít chấp nhận rủi ro và ít dùng thẻ. Trong khi đó, những người trong độ tuổi từ 18 đến 45 rất dễ dàng chấp nhận mở tài khoản bởi vì họ có thể nhận thức được sự thay đổi của công nghệ mới và năng động trong việc tìm kiếm những ứng dụng mới phục vụ cho cuộc sống của mình. Nghiên cứu sơ bộ về thị trường thẻ ATM cho thấy rất nhiều người ở độ tuổi này là chủ thẻ và họ đã sử dụng rất nhiều giao dịch thông qua hệ thống ATM. Vì vây, các ngân hàng cần chủ động tiếp cận với khúc thị trường này để có nhiều cơ hội hơn trong việc phát triển thanh toán thẻ.

Nhìn chung các ngân hàng và người tiêu dùng đã có những sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng thẻ thanh toán nhưng tiện ích của thẻ thanh toán tại Việt Nam chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng. Vì vậy, trong thời gian tới thanh toán thẻ cần có những sự phát triển hơn nữa để trở thành nhu cầu cần thiết đối với mọi đối tượng người dân Việt nam.



TÓM TẮT CHƯƠNG 2:

Thanh toán không dùng tiền mặt bước đầu được hình thành tại Việt Nam, cụ thể bằng con đường thanh toán thẻ. Song Việt Nam cần phải có những nỗ lực hơn nữa để đi sâu vào việc thanh toán qua thẻ để hạn chế tối ưu thanh toán không dùng tiền mặt bằng một trong những công nghệ hiện đại là thẻ thanh toán. Trong chương 2, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt và những nguyên nhân của nó trong nền kinh tế Việt Nam, kèm theo đó là những đánh giá thực trạng thẻ thanh toán trong nền kinh tế Việt Nam trên nhiều phương diện. Những định hướng phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán trong tương lai của các ngân hàng thương mại và những chính sách của Chính phủ sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.

2.2.2. Những tồn tại:

TÓM TẮT CHƯƠNG 2:

Thanh toán không dùng tiền mặt bước đầu được hình thành tại Việt Nam, cụ thể bằng con đường thanh toán thẻ. Song Việt Nam cần phải có những nỗ lực hơn nữa để đi sâu vào việc thanh toán qua thẻ để hạn chế tối ưu thanh toán không dùng tiền mặt bằng một trong những công nghệ hiện đại là thẻ thanh toán. Trong chương 2, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt và những nguyên nhân của nó trong nền kinh tế Việt Nam, kèm theo đó là những đánh giá thực trạng thẻ thanh toán trong nền kinh tế Việt Nam trên nhiều phương diện. Những định hướng phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán trong tương lai của các ngân hàng thương mại và những chính sách của Chính phủ sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.



CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG TỈNH TRÀ VINH.

3.1. Định hướng phát triển dịch vụ thẻ của NHTMCP Công thương Tỉnh Trà Vinh:

3.1.1. Định hướng phát triển dịch vụ thẻ của NHNN:

Thẻ thanh toán với những điều kiện phát hành đơn giản và thuận tiện khi sử dụng, phù hợp với thị trường Việt Nam nên hoạt động phát hành thẻ nội địa phát triển mạnh trong thời gian qua. Vietcombank mở đầu với việc phát hành thẻ Connect 24 và triển khai hệ thống VCB – ATM. Ngay lập tức các ngân hàng khác cũng đưa ra những sản phẩm thẻ đầu tiên của mình như Cash Card, tiếp theo là ATM Gold Card, ATM S – Card của Vietinbank, thẻ Vạn dặm của BIDV, thẻ đa năng của ngân hàng Đông Á, thẻ F@stAccess của Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương (Eximbank), Sài Gòn Bank Card của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương (SCB), ACB e-Card, Citimart của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB), Vib Values Card của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế, ATM Lucky của Ngân hàng Phương Đông,… Từ chức năng ban đầu của thẻ ATM chỉ cho phép rút tiền từ tài khoản, chuyển khoản, xem số dư, in sao kê, Connect 24 đến nay dần được trang bị thêm những tiện ích như rút tiền từ tài khoản USD, thanh toán hàng hóa và dịch vụ tại những đơn vị chấp nhận thẻ, thanh toán tiền điện thoại, tiền nước, phí bảo hiểm, nạp tiền vào tài khoản từ máy ATM.

Bên cạnh các loại thẻ tín dụng quốc tế thông dụng như Visa, MasterCard do Vietcombank, ACB, Eximbank đã phát hành, thời gian qua thị trường thẻ Việt Nam cũng xuất hiện thêm nhiều sản phẩm thẻ mới với nhiều hình thức mới như sản phẩm thẻ VCB – Amex do Vietcombank phát hành, thẻ tín dụng quốc tế bằng đồng Việt nam do HSBC và ACB hợp tác phát hành, thẻ ghi nợ quốc tế bằng đồng Việt nam của ACB, các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế do Sacombank, Incombank, VIBank, Techcombank phát hành đã được nhiều khách hàng lựa chọn… Với nhiều tính năng hấp dẫn như “chi tiêu trước, trả tiền sau”, có thể thanh toán toàn bộ hay một phần khoản hạn mức khi đến hạn thanh toán, thời hạn miễn lãi từ 15 đến 45 ngày, không tính lãi nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ dư nợ vào trước ngày thanh toán, mức phí phát hành, phí thường niên thấp, đồng thời sự tác động tích cực của các chương trình tiếp xúc tiến mở rộng thị phần mà các ngân hàng Việt Nam và các tổ chức thẻ quốc tế đang thực hiện, theo dự báo Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam thời gian tới sẽ có những sự bức phá về số lượng và đối tượng khách hàng dùng thẻ quốc tế thanh toán. Bên cạnh đó, nhằm tối ưu hóa các công dụng của thẻ, nhiều ngân hàng cũng đưa ra các sản phẩm thẻ liên kết, thẻ đa năng. Thẻ đa năng vừa là thẻ ghi nợ, cũng vừa là thẻ tín dụng, giúp khách hàng có thể thuận tiện hơn trong thanh toán, còn ngân hàng tiết kệm được chi phí phát hành thẻ. Đây thực sự là một bước tiến mới trong lĩnh vực công nghệ thanh toán thẻ.

Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng về phát triển sản phẩm, dịch vụ mới đã tạo cơ hội tốt cho người sử dụng thẻ có nhiều lựa chọn mới và có điều kiện tiếp cận với những phương tiện thanh toán hiện đại, với các tính năng tiện lợi nhất bằng việc thanh toán hóa đơn bằng thẻ ATM của VCB, gởi tiết kiệm bằng thẻ EAB, thanh toán taxi của ACB hay thanh toán phí bảo hiểm của VCB,… Những tiện ích mà các dịch vụ thẻ mang lại đã góp phần từng bước phá vỡ thói quen ưa sử dụng tiền mặt của người dân, giảm chi phí xã hội, nâng cao khả năng quản lý tiền tệ của Nhà nước cũng như góp phần hữu ích vào việc tạo dựng nền móng cho sự hình thành một nền thương mại điện tử còn non trẻ của nước ta.

Tuy nhiên, tồn tại song song với những thành tựu này là những khó khăn trở ngại mà vẫn chưa khắc phục được từ phía ngân hàng. Đó là thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn có sự khác biệt lớn trong quan điểm của các ngân hàng về lợi ích kinh tế và lợi ích cộng đồng. Phạm vi phát hành và sử dụng thẻ còn nhiều hạn chế, mới chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn, đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu tập trung vào tầng lớp đang làm việc trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, cán bộ, công chức làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và mới đây là đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, các ngân hàng thương mại mới chỉ chú ý đến mặt số lượng thẻ, quy mô thẻ. Để cạnh tranh thu hút khách hàng, không ít ngân hàng thương mại tặng không thẻ cho khách hàng. Thêm một vấn đề vẫn chưa giải quyết được, đó là số lượng máy ATM tuy có tăng nhưng vẫn không đáp ứng được hết nhu cầu của người sử dụng, dẫn đến tình trạng quá tải, nhất là các dịp lễ Tết. Bên cạnh đó, máy ATM cũng gặp rất nhiều trục trặc. Việc trả lương qua thẻ cũng gây ra những trục trặc cho khách hàng, nhất là đối với những người có thu nhập thấp khi họ có nhu cầu nhưng không thể thực hiện giao dịch được. Tại các thành phố lớn có mạng lưới ATM rộng khắp thì không phát sinh vấn đề, nhưng ở các huyện, các tỉnh sâu xa thì đây thực sự là một khó khăn lớn.

Từ thực tế trên, để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải có một công nghệ thanh toán hiện đại, an toàn và nhanh chóng. Hiện nay, một số ngân hàng đang xây dựng và thực hiện đề án sử dụng thẻ Chip điện tử thay thế thẻ từ để giảm thiểu đến mức thấp nhất các hành vi gian lận về thẻ cũng như hạn chế tối đa hiện tượng làm thẻ giả thanh toán. Các ngân hàng cần tăng cường quan hệ với các tổ chức quốc tế để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm phát triển thẻ. Tất cả đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và cần có sự đầu tư đồng bộ mà không phải ngân hàng nào cũng dễ dàng thực hiện được. Chính vì vậy mà việc liên kết các ngân hàng thương mại nhỏ với những ngân hàng đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực thẻ là điều kiện tốt để phát triển hệ thống thanh toán thẻ ở Việt Nam. Các ngân hàng sẽ tận dụng được công nghệ và hệ thống ATM có sẵn, việc phát triển hoạt động ATM sẽ nhanh chóng và giảm thiểu được chi phí. Sự liên kết giữa các ngân hàng có một ý nghĩa hết sức to lớn và là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển thị trường thẻ Việt Nam. Việc ra đời của các liên minh thẻ là xu thế tất yếu để các ngân hàng cùng tồn tại và phát triển, báo hiệu một hệ thống thẻ lớn mạnh sẽ được kết nối trong toàn quốc nhằm tạo cho khách hàng có mạng lưới rộng, có thể thanh toán mọi lúc, mọi nơi. Mối liên kết này sẽ tạo sức mạnh cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi hội nhập ngày càng đến gần.

Một trong những định hướng quan trọng của Chính phủ về việc phát triển phương thức TTKDTM là triển khai Đề án TTKDTM, trong đó đưa ra 6 giải pháp đồng bộ giúp tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động TTKDTM ở VN trong thời gian tới. Theo Đề án, đến cuối năm 2010, mức phát hành thẻ trong thanh toán phấn đấu đạt 15 triệu thẻ; 70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng… lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Con số này đến năm 2020 phấn đấu đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%. Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán đến năm 2010 không quá 18%; đến năm 2020 khoảng 15%. Số lượng tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010 đạt mức 20 triệu; 70% cán bộ hưởng lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0,5 tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động được trả lương qua tài khoản. Các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp thực hiện qua ngân hàng đạt mức 80% vào năm 2010 và đạt 95% vào năm 2020.

VN là nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh và ổn định trên 7.5% năm trong nhiều năm; dân số đông, cơ cấu dân số trẻ cùng với việc mở của hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới; sự phát triển bùng nổ của hệ thống ngân hàng và thị trường vốn đặc biệt là thị trường chứng khoán; tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt có xu hướng ngày càng giảm … tất cả các yếu tố trên là tiền đề cho sự bùng nổ thị trường thẻ VN trong thời gian tới.



3.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ thẻ của NHTMCP Công thương Việt Nam:

3.1.3. Định hướng phát triển dịch vụ thẻ của NHTMCP Công thương Tỉnh Trà Vinh:

3.2. Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại chi nhánh ngân hang thương mại cổ phần Công thương Trà Vinh:

3.2.1. Giải pháp vĩ mô:

- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán thẻ. Trên cơ sở đó, tiến hành kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế, tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham gia, hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp khách quan,… Xây dựng cơ chế chính sách về thanh toán đồng bộ, nhất quán, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội.

- Ngân hàng Trung Ương đóng vai trò quyết định trong việc ban hành cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, thông thoáng cho quá trình sử dụng, phát triển các phương tiện thanh toán và hệ thống thanh toán, là người trực tiếp quản lý việc đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán thống nhất giữa các ngân hàng; tổ chức, quản lý, kiểm tra giám sát hoạt động của hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đề ra các biện pháp thúc đẩy nhanh thanh toán không dùng tiền mặt như: quản lý chặt chẽ việc sử dụng tiền mặt, có chính sách ưu đãi cho các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.

- Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý quản lý hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng. Hiện nay, các ngân hàng kinh doanh thẻ đều phải xây dựng riêng cho mình quy chế nghiệp vụ riêng dẫn đến sự không đồng nhất, gây khó khăn cho việc hợp tác kết nối hệ thống thẻ giữa các ngân hàng, dẫn đến việc đầu tư tốn kém, hiệu quả kinh doanh không cao.

- Chính phủ cần sớm vận hành quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ luật Hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ giả và cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ. Các hoạt động giả mạo thẻ, thường có liên quan đến yếu tố nước ngoài nên Chính phủ có thể tham khảo luật và quy định của các tổ chức thẻ quốc tế cũng như các quy định của luật pháp quốc tế để ban hành các điều khoản có tính thực thi cao, phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh những tranh chấp quốc tế có thể xảy ra mà không mâu thuẫn với hệ thống pháp luật Việt Nam.

- Xây dựng đầy đủ hơn cơ sở pháp lý cho việc phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng, trong đó có chế tài xử lý đối với hành vi tiết lộ thông tin, ăn cắp thông tin khách hàng sử dụng vào mục đích gian lận, đồng thởi xử lý đối với các cá nhân, đơn vị gây thất thoát dữ liệu thẻ, đặc biệt là các đơn vị được thuê ngoài. Các đối tượng gian lận trong thanh toán thẻ (chủ thẻ giả mạo, ngân hàng chứng minh được chủ thẻ gian lận cố tính đòi tiền và làm giảm uy tín của ngân hàng, cơ sở chấp nhận thẻ giả mạo, cơ sở chấp nhận thẻ thông đồng,…) .Theo đó, có các biện pháp thích hợp và thống nhất để các giải pháp về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt thực sự đi vào đời sống.

3.2.1.1. Đối với chính phủ:

Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho Ngân hàng, các tổ chức kinh tế, các quỹ đầu tư phát triển:



  • Tiếp tục xây dựng và đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động thanh toán của các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Chính phủ cũng có nghĩa là thừa nhận nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển. Mà trong đó, quy luật cạnh tranh là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển thêm nhiều chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ thanh toán, đó là hệ thống các ngân hàng, tổ chức tín dụng; các tổ chức tài chính như kho bạc, quỹ hỗ trợ phát triển, các doanh nghiệp như Bưu điện; các Công ty chứng khoán, Bảo hiểm,… Để tồn tại và phát triển, mỗi ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đều phải cạnh tranh với nhau trong hoạt động thanh toán của mình. Hơn nữa, lịch sử phát triển của các nước có hệ thống thanh toán hiện đại cũng chỉ rõ có rất nhiều tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng. Như vậy, cần xác định nền kinh tế nước ta trong tương lai có rất nhiều chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ thanh toán phục vụ các giao dịch tài chính thương mại và dịch vụ. tuy nhiên cạnh tranh của các chủ thể này sẽ không lành mạnh và kém hiệu quả nếu môi trường cạnh tranh không bình đẳng. Vì vậy, đòi hỏi Chính phủ phải tiếp tục xây dựng và ban hành cơ sở pháp lý, cơ chế thừa nhận và đảm bảo bình đẳng trong quá trình cạnh tranh cung cấp dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế.

  • Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạt động thanh toán của Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống thanh toán sẽ ngày càng phức tạp và đa dạng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Với chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng và thanh toán, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường quản lý các hoạt động thanh toán trong nền kinh tế thông qua việc cung cấp dịch vụ thanh toán cho các tổ chức tín dụng và trực tiếp tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng; hạn chế thanh toán bằng tiền mặt để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi cả nước.

  • Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tiến tới tự động hóa hoàn toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước từ một nền kinh tế kém phát triển. Trong lĩnh vực ngân hàng tuy đã có nhiều đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống thanh toán nói riêng. Nhưng việc đầu tư hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán cần lượng vốn rất lớn nên không thể thực hiện được trong một thời gian ngắn. Mặt khác, việc quản trị hoạt động kinh doanh một ngân hàng hiện đại cũng cần có thời gian nghiên cứu và vận dụng phù hợp với từng giai đoạn. Vì thế quá trình hoàn thiện hệ thống thanh toán qua ngân hàng phải trải qua nhiều bước phù hợp với khả năng tài chính, trình độ quản trị hoạt động ngân hàng và trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng. Mỗi giai đoạn phát triển tiếp theo phải kế thừa những kết quả của giai đoạn trước, và thực hiện đồng bộ các giải pháp kinh tế-kỹ thuật để hiện đại hóa hệ thống thanh toán qua ngân hàng.

Каталог: resources
resources -> HƯỚng dẫn sử DỤng tài liệU Ôn tập thi thpt quốc gia môN: tiếng anh
resources -> KHỔ giấY, kiểu trình bày và ĐỊnh lề trang văn bảN a Khổ giấy
resources -> THỦ TƯỚng chính phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
resources -> CỦa chính phủ SỐ 01/2003/NĐ-cp ngàY 09 tháng 01 NĂM 2003
resources -> Nghị ĐỊnh của chính phủ SỐ 205/2004/NĐ-cp ngàY 14 tháng 12 NĂM 2004 quy đỊnh hệ thống thang lưƠNG, BẢng lưƠng và chế ĐỘ phụ CẤp lưƠng trong các công ty nhà NƯỚC
resources -> CHÍnh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập Tự do Hạnh phúc
resources -> QuyếT ĐỊnh của bộ TÀi chính số 32/2008/QĐ-btc ngàY 29 tháng 05 NĂM 2008 VỀ việc ban hành chế ĐỘ quản lý, TÍnh hao mòN
resources -> Ban tổ chức số 09-hd/btctw đẢng cộng sản việt nam

tải về 498.82 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương