763.TƯƠNG LAI KHÔNG MONG CẦU
Nếu Tỳ-kheo không hoan lạc sắc ở tương lai, không ham muốn, không đắm trước, không an trú. Không hoan lạc giác, tưởng, hành, thức tương lai, sẽ không ham muốn, không đắm trước, không an trú. Như vậy gọi là Tỳ-kheo không mong cầu tương lai.
(Trung A Hàm, Kinh A-Nan Thuyết, Phẩm 13, số 167)
---o0o---
764.TƯỞNG PHÁP
Bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Pháp được Thế Tôn khéo giảng, pháp chắc chắn đưa đến cứu cánh, không phiền, không nhiệt, hằng hữu, không di động. Quán pháp như vậy, biết pháp như vậy, nhớ nghĩ pháp như vậy rồi nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào pháp, tâm tịnh được hỷ. Nếu có những điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt.
(Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
---o0o---
765.TƯỞNG TĂNG
Bạch y Thánh đệ tử niệm chúng Tăng, Thánh chúng của Như Lai là những bậc thiện thú hướng, chánh thú hướng, như lý hành, pháp tùy pháp hành, chúng ấy thật có A-la-hán hướng, A-la-hán quả, có A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả, có Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả, có Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả. Đó là bốn cặp tám bậc, là chúng của Như Lai thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, đáng kính, đáng trọng, đáng phụng, đáng cúng, là ruộng phước an lành của thế gian. Người ấy nhớ nghĩ chúng của Như Lai như vậy, nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt.
Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào chúng của Như Lai, tâm được hoan hỷ, nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt.
(Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
---o0o---
766.TÙY DỤNG TÂM TỰ TẠI
Nếu Tỳ Kheo muốn trú định nào, vị ấy vào buổi sáng an trú định ấy. Nếu muốn an trú trụ định vào buổi trưa hay buổi chiều, tức thì vị ấy an trú trụ định ấy vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, ví như y phục của vua và các quan rất nhiều màu sắc rực rỡ, nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi sáng, liền lấy mặc vào. Nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi trưa hay buổi chiều, liền lấy mặc. Hiền giả Mục-kiền-liên, cũng vậy, Tỳ-kheo tùy dụng tâm tự tại.
(Trung A Hàm, Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, Phẩm 15, số 184)
---o0o---
767.TÙY DỤNG TÂM TỰ TẠI VÀ KHU RỪNG
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hỏi rằng: ‘Khả ái thay, rừng Ngưu giác sa-la này, ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát, ví như hoa trời’. Hiền giả Đại Ca-diếp, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng
Ngưu giác sa-la?’
Tôn giả Xá-lê Tử liền đáp rằng, ‘Hiền giả Mục-kiềnliên, nếu có Tỳ-kheo tùy dụng tâm tự tại, chứ không phải tùy tâm. Nếu muốn trú định nào, vị ấy vào buổi sáng an trú định ấy. Nếu muốn an trú trụ định vào buổi trưa hay buổi chiều, tức thì vị ấy an trú trụ định ấy vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, ví như y phục của vua và các quan rất nhiều màu sắc rực rỡ, nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi sáng, liền lấy mặc vào. Nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi trưa hay buổi chiều, liền lấy mặc. Hiền giả Mục-kiền-liên, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo nào tùy dụng tâm tự tại, chứ không phải tùy tâm. Nếu muốn trú định nào, vị ấy vào buổi sáng an trú định ấy. Nếu muốn an trú trụ định vào buổi trưa hay buổi chiều, tức thì vị ấy an trú trụ định ấy vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la’.
Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Mục-kiền-liên, đúng như lời Tỳ-kheo Xá-lê Tử đã nói. Vì sao? Vì Xá-lê Tử Tỳ-kheo tùy dụng Tâm tự tại.
(Trung A Hàm, Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, Phẩm 15, số 184)
---o0o---
768.TỲ KHEO BĂNG HÀO
Thế nào là Tỳ-kheo băng hào?
Hào vô minh đã diệt tận, đã biến tri, nhổ tuyệt gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa.
(Trung A Hàm, Kinh A-lê-tra, Phẩm 16, số 200)
---o0o---
769.TỲ KHEO BIẾT CHÚNG HỘI
Thế nào là Tỳ-kheo biết chúng hội? Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là Phạm chí, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy.
(Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
---o0o---
770.TỲ KHEO BIẾT GIỚI
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
01) Sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
02) Sáu giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới.
03) Sáu giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
04) Bốn giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới.
05) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
06) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
07) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
08) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
09) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
11) Hai giới: hữu lậu giới, vô lậu giới.
12) Hai giới: hữu vi giới, vô vi giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này.
(Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
---o0o---
771.TỲ KHEO BIẾT MÌNH
Thế nào là Tỳ-kheo biết mình?
Tỳ-kheo tự biết mình có mức độ ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở đắc.
(Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
---o0o---
772.TỲ KHEO BIẾT NHÂN DUYÊN
Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về nhân duyên và pháp khởi từ nhân duyên, rằng ‘Nhân cái này có, cái kia có; cái này không, cái kia không. Cái này sanh, cái kia sanh; cái này diệt cho nên cái kia diệt’. Tức là duyên vô minh có hành..., cho đến duyên sanh có già, chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì già, chết diệt.
(Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |