(疏) 一日忽東迴。
(Sớ: Một hôm, cây chợt mọc trở về phương Đông).
Có một ngày, những pháp sư trong chùa thấy cây ấy xoay trở lại, mọc dài về phương Đông. Mọi người nhớ mười bảy năm trước lúc Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, đi rồi tin tức mịt mù, chẳng biết Ngài còn sống hay đã chết? Sau mười bảy năm, thấy cây ấy mọc dài về phương Đông, quay trở lại, mọi người trong lòng hoan hỷ, Huyền Trang đại sư sắp quay về!
(Sớ) Môn đệ tử hỷ viết: “Sư quy hỹ”. Dĩ nhi quả nhiên, thời hiệu Ma Đảnh Tùng vân.
(疏) 門弟子喜曰:師歸矣。已而果然,時號摩頂松云。
(Sớ: Các đệ tử vui mừng nói: “Thầy về rồi đấy!” Quả nhiên là như thế, khi ấy, người ta gọi cây tùng ấy là Cây Tùng Được Xoa Đầu).
Cây tùng ấy sau này được gọi là Ma Đảnh Tùng. Ngay cả cây cỏ đều có linh tánh, con người quyết định chớ nên cô phụ linh tánh của chính mình.
(Sớ) Án sư thệ ngôn tự yếu, bất sảng như thị, chân ngữ, thật ngữ.
(疏) 按師誓言自要,不爽如是,真語實語。
(Sớ: Xét thấy lời Sư tự thề chẳng sai sẩy như thế, [đó là] chân ngữ, thật ngữ).
Điều này cũng có thể là chứng minh: Lời Ngài là lời chân thật. La Thập đại sư chỉ dùng cái lưỡi để làm chứng, Huyền Trang đại sư dùng cây tùng ấy cũng có thể làm chứng. Nếu chẳng phải là lời chân thành, chẳng thể cảm động cây cỏ. Chỉ có chân thành mới có thể cảm động.
(Sớ) Diệc Thập sư thiệt căn bất hoại, chư Phật thiệt tướng quảng trường ý dã.
(疏) 亦什師舌根不壞,諸佛舌相廣長意也。
(Sớ: Cũng có cùng một ý nghĩa với chuyện cái lưỡi của ngài La Thập chẳng hư nát và tướng lưỡi dài rộng của chư Phật vậy).
Điều này nói chung giống với ý nghĩa đã được nói trong phần trước.
(Sớ) Sở dịch thử kinh, yên khả bất tín?
(疏) 所譯此經,焉可不信?
(Sớ: Đối với kinh này do các Ngài dịch, há có thể chẳng tin?)
Đây là nói đến sự phiên dịch kinh Di Đà, chúng ta có thể nào chẳng tin?
(Sớ) Liên tỷ giả, tiên hậu trùng dịch dã.
(疏) 聯比者,先後重譯也。
(Sớ: “Ghép lại để so sánh” là [so sánh giữa] hai lần dịch trước và sau).
Ghép liền hai bản dịch, so sánh giữa hai bản dịch để đối chiếu, ý nghĩa như nhau, văn tự không giống nhau, trong ấy cũng có rộng lược sai khác, chẳng hạn như “Lục phương Phật”, La Thập đại sư dịch thành sáu phương, Huyền Trang đại sư dịch thành mười phương.
(Sớ) Tiểu dị đại đồng giả, Phạn âm sảo biệt, cập ngữ hữu phồn giản, như Hằng hà, Căng Già.
(疏) 小異大同者,梵音稍別,及語有繁簡,如恆河殑伽。
(Sớ: Sai biệt đôi chút, phần lớn giống nhau: Âm tiếng Phạn hơi khác nhau, và từ ngữ có rườm rà hay đơn giản khác biệt, ví dụ như Hằng hà và Căng Già).
La Thập đại sư dịch là “Hằng hà sa số”, dùng chữ “Hằng hà”; Huyền Trang đại sư dịch thành Căng Già, sông Căng Già (Ganges) là Hằng hà, từ âm tiếng Phạn dịch ra.
(Sớ) Lục phương thập phương chi loại.
(疏) 六方十方之類。
(Sớ: Sáu phương và mười phương v.v...)
“Lục phương Phật”: La Thập đại sư dịch thành sáu phương, tức Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới; Huyền Trang đại sư dịch là mười phương. Bản dịch của La Thập đại sư đã tỉnh lược bốn phương Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Tuy văn tỉnh lược, nhưng ý nghĩa viên mãn.
(Sớ) Nhi đại ý nhất vô tương quai dã.
(疏) 而大意一無相乖也。
(Sớ: Nhưng đại ý là một, chẳng trái nghịch nhau).
Đại ý hoàn toàn tương đồng.
(Sớ) Giai hoằng giả, Pháp Hoa tam dịch, Tần bổn thịnh hành. Thử kinh nhị dịch, diệc phục như thị.
(疏) 皆弘者,法華三譯,秦本盛行。此經二譯,亦復如是。
(Sớ: “Đều hoằng dương”: Pháp Hoa có ba bản dịch, bản dịch đời Tần thịnh hành. Kinh này có hai bản dịch, cũng giống như thế).
Kinh Pháp Hoa tại Trung Quốc có ba bản dịch, nhưng hết thảy mọi người thích tụng bản dịch của La Thập đại sư, những bản khác như Chánh Pháp Hoa, Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh28[28] rất ít người niệm, rất ít lưu thông. Kinh Di Đà cũng giống như thế, có hai bản dịch, nhưng bản dịch của La Thập đại sư được hoan nghênh nhất.
Hiện thời, chúng tôi nói Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh được truyền đến Trung Quốc sớm nhất, được phiên dịch vào thời ngài An Thế Cao, chỉ trễ hơn [bản dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương] của Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Đó là vào đời Hán. Hơn nữa, tại Trung Quốc có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều nhất. Do điều này có thể biết: Từ xưa tới nay, pháp môn Tịnh Độ được coi trọng và phổ biến, các vị cổ đại đức đều đề xướng cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta chớ nên không biết điều này! Nhưng hơn một nửa các bản dịch đã bị thất lạc, được thu thập trong Đại Tạng Kinh chỉ năm bản dịch, chỉ còn những bản ấy. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ, phải lấy năm bản dịch ấy làm căn cứ. Bản được chúng tôi dùng để giảng hiện thời là bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Cụ đã đem năm bản dịch, biên tập lần nữa thành một bản mới. Nhưng mỗi câu kinh văn, mỗi chữ trong ấy đều xuất phát từ năm bản dịch gốc, tự mình chẳng thêm vào một chữ nào, không hề sửa một chữ nào. Đây là biên tập trung thực, lại còn là biên tập khá hay! Chúng ta đọc bản này, giảng bản này, năm bản dịch gốc có thể dùng để tham khảo. Những chuyện này không gì chẳng nhằm kiến lập lòng tin cho chúng ta, kích phát đại nguyện cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho chúng ta trong một đời này thành tựu viên mãn Bồ Đề. Đây là bổn hoài khiến cho đức Thế Tôn xuất hiện giáo hóa chúng sanh trên thế gian này, mà cũng là kỳ vọng duy nhất của lịch đại tổ sư đại đức đối với chúng ta, mong muốn chúng ta hãy chọn lựa pháp môn này, sẽ thành tựu ngay trong đời này. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây.
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 44 hết
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |