A di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 阿彌陀經疏鈔演義 Phần 44



tải về 461.13 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích461.13 Kb.
#36545
1   2   3   4

() 一日忽東迴。

(Sớ: Một hôm, cây chợt mọc trở về phương Đông).

 

Có một ngày, những pháp sư trong chùa thấy cây ấy xoay trở lại, mọc dài về phương Đông. Mọi người nhớ mười bảy năm trước lúc Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, đi rồi tin tức mịt mù, chẳng biết Ngài còn sống hay đã chết? Sau mười bảy năm, thấy cây ấy mọc dài về phương Đông, quay trở lại, mọi người trong lòng hoan hỷ, Huyền Trang đại sư sắp quay về!



 

(Sớ) Môn đệ tử hỷ viết: “Sư quy hỹ”. Dĩ nhi quả nhiên, thời hiệu Ma Đảnh Tùng vân.

() 門弟子喜曰:師歸矣。已而果然,時號摩頂松云。

(Sớ: Các đệ tử vui mừng nói: “Thầy về rồi đấy!” Quả nhiên là như thế, khi ấy, người ta gọi cây tùng ấy là Cây Tùng Được Xoa Đầu).

 

Cây tùng ấy sau này được gọi là Ma Đảnh Tùng. Ngay cả cây cỏ đều có linh tánh, con người quyết định chớ nên cô phụ linh tánh của chính mình.



 

(Sớ) Án sư thệ ngôn tự yếu, bất sảng như thị, chân ngữ, thật ngữ.

() 按師誓言自要,不爽如是,真語實語。

(Sớ: Xét thấy lời Sư tự thề chẳng sai sẩy như thế, [đó là] chân ngữ, thật ngữ).

 

Điều này cũng có thể là chứng minh: Lời Ngài là lời chân thật. La Thập đại sư chỉ dùng cái lưỡi để làm chứng, Huyền Trang đại sư dùng cây tùng ấy cũng có thể làm chứng. Nếu chẳng phải là lời chân thành, chẳng thể cảm động cây cỏ. Chỉ có chân thành mới có thể cảm động.



 

(Sớ) Diệc Thập sư thiệt căn bất hoại, chư Phật thiệt tướng quảng trường ý dã.

() 亦什師舌根不壞,諸佛舌相廣長意也。

(Sớ: Cũng có cùng một ý nghĩa với chuyện cái lưỡi của ngài La Thập chẳng hư nát và tướng lưỡi dài rộng của chư Phật vậy).

Điều này nói chung giống với ý nghĩa đã được nói trong phần trước.

 

(Sớ) Sở dịch thử kinh, yên khả bất tín?

() 所譯此經,焉可不信?

(Sớ: Đối với kinh này do các Ngài dịch, há có thể chẳng tin?)

 

Đây là nói đến sự phiên dịch kinh Di Đà, chúng ta có thể nào chẳng tin?



 

(Sớ) Liên tỷ giả, tiên hậu trùng dịch dã.

() 聯比者,先後重譯也。

(Sớ: “Ghép lại để so sánh” là [so sánh giữa] hai lần dịch trước và sau).

 

Ghép liền hai bản dịch, so sánh giữa hai bản dịch để đối chiếu, ý nghĩa như nhau, văn tự không giống nhau, trong ấy cũng có rộng lược sai khác, chẳng hạn như “Lục phương Phật”, La Thập đại sư dịch thành sáu phương, Huyền Trang đại sư dịch thành mười phương.



 

(Sớ) Tiểu dị đại đồng giả, Phạn âm sảo biệt, cập ngữ hữu phồn giản, như Hằng hà, Căng Già.

() 小異大同者,梵音稍別,及語有繁簡,如恆河殑伽

(Sớ: Sai biệt đôi chút, phần lớn giống nhau: Âm tiếng Phạn hơi khác nhau, và từ ngữ có rườm rà hay đơn giản khác biệt, ví dụ như Hằng hà và Căng Già).

 

La Thập đại sư dịch là “Hằng hà sa số”, dùng chữ “Hằng hà”; Huyền Trang đại sư dịch thành Căng Già, sông Căng Già (Ganges) là Hằng hà, từ âm tiếng Phạn dịch ra.



 

(Sớ) Lục phương thập phương chi loại.

() 六方十方之類。

(Sớ: Sáu phương và mười phương v.v...)

 

“Lục phương Phật”: La Thập đại sư dịch thành sáu phương, tức Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới; Huyền Trang đại sư dịch là mười phương. Bản dịch của La Thập đại sư đã tỉnh lược bốn phương Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Tuy văn tỉnh lược, nhưng ý nghĩa viên mãn.

 

(Sớ) Nhi đại ý nhất vô tương quai dã.

() 而大意一無相乖也。

(Sớ: Nhưng đại ý là một, chẳng trái nghịch nhau).

 

Đại ý hoàn toàn tương đồng.



 

(Sớ) Giai hoằng giả, Pháp Hoa tam dịch, Tần bổn thịnh hành. Thử kinh nhị dịch, diệc phục như thị.

() 皆弘者,法華三譯,秦本盛行。此經二譯,亦復如是。

(Sớ: “Đều hoằng dương”: Pháp Hoa có ba bản dịch, bản dịch đời Tần thịnh hành. Kinh này có hai bản dịch, cũng giống như thế).

 

Kinh Pháp Hoa tại Trung Quốc có ba bản dịch, nhưng hết thảy mọi người thích tụng bản dịch của La Thập đại sư, những bản khác như Chánh Pháp Hoa, Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh28[28] rất ít người niệm, rất ít lưu thông. Kinh Di Đà cũng giống như thế, có hai bản dịch, nhưng bản dịch của La Thập đại sư được hoan nghênh nhất.



Hiện thời, chúng tôi nói Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh được truyền đến Trung Quốc sớm nhất, được phiên dịch vào thời ngài An Thế Cao, chỉ trễ hơn [bản dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương] của Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Đó là vào đời Hán. Hơn nữa, tại Trung Quốc có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều nhất. Do điều này có thể biết: Từ xưa tới nay, pháp môn Tịnh Độ được coi trọng và phổ biến, các vị cổ đại đức đều đề xướng cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta chớ nên không biết điều này! Nhưng hơn một nửa các bản dịch đã bị thất lạc, được thu thập trong Đại Tạng Kinh chỉ năm bản dịch, chỉ còn những bản ấy. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ, phải lấy năm bản dịch ấy làm căn cứ. Bản được chúng tôi dùng để giảng hiện thời là bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Cụ đã đem năm bản dịch, biên tập lần nữa thành một bản mới. Nhưng mỗi câu kinh văn, mỗi chữ trong ấy đều xuất phát từ năm bản dịch gốc, tự mình chẳng thêm vào một chữ nào, không hề sửa một chữ nào. Đây là biên tập trung thực, lại còn là biên tập khá hay! Chúng ta đọc bản này, giảng bản này, năm bản dịch gốc có thể dùng để tham khảo. Những chuyện này không gì chẳng nhằm kiến lập lòng tin cho chúng ta, kích phát đại nguyện cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho chúng ta trong một đời này thành tựu viên mãn Bồ Đề. Đây là bổn hoài khiến cho đức Thế Tôn xuất hiện giáo hóa chúng sanh trên thế gian này, mà cũng là kỳ vọng duy nhất của lịch đại tổ sư đại đức đối với chúng ta, mong muốn chúng ta hãy chọn lựa pháp môn này, sẽ thành tựu ngay trong đời này. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây.

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 44 hết

 



1[1] Ngài Chi Lâu Ca Sấm (147-?), người xứ Đại Nhục Chi, đến Trung Hoa vào thời Hán Hoàn Đế. Tính đến niên hiệu Trung Bình (184-189) đời Hán Linh Đế, Ngài đã dịch các bộ Đạo Hành Bát Nhã Kinh, Ban Châu Tam Muội Kinh, A Xà Thế Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, một phần kinh Bảo Tích. Ngài chính là người đầu tiên truyền học thuyết Bát Nhã vào Trung Quốc. Bộ Ban Châu Tam Muội Kinh được coi như là bộ kinh đầu tiên giới thiệu tư tưởng Tịnh Độ Tông Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu cho rằng Sơ Tổ Huệ Viễn đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai bộ Ban Châu Tam Muội và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh khi đề xướng liên xã.

2[2] Khang Tăng Khải (Samghavarman), không rõ năm sinh và năm mất, chữ Khang không phải là họ mà do Ngài đến từ xứ Khang Cư (Sogdiana) vùng Trung Á. Ngài đến Lạc Dương vào năm Gia Bình thứ tư (252) nhà Tào Ngụy, ở chùa Bạch Mã. Ngài dịch các bộ Úc Già Trưởng Giả Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Tứ Phần Tạp Yết Ma. Trong Tục Tạng có Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại Sự Nhân Duyên Kinh cũng đề tên dịch giả là ngài Khang Tăng Khải, nhưng do văn phong khác biệt, nên các học giả không dám đoan quyết bản ấy có phải do Ngài dịch hay không.

Ngài Chi Khiêm là người xứ Đại Nhục Chi, có tên tự là Cung Minh (không rõ năm sinh và năm mất), theo gia đình di cư đến Trung Hoa, sống ở Hà Nam, thông thạo ngôn ngữ sáu quốc gia, theo học với ngài Chi Lượng (đệ tử của ngài Chi Lâu Ca Sấm). Do tỵ nạn, chạy vào Đông Ngô, được Ngô vương Tôn Quyền coi trọng, phong làm quan Bác Sĩ, chuyên dạy Thái Tử Tôn Lượng. Ngài chuyên tâm dịch kinh Phật suốt mười ba năm, dịch Duy Ma Cật Kinh, Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, Đại Minh Độ Kinh v.v... Khi Thái Tử lên ngôi, ngài lánh vào núi Cùng Ải ẩn cư, xin xuất gia với pháp sư Trúc Pháp Lan.



3[3] Pháp Hiền (?-1001) là một vị Tăng xuất thân từ tự viện Na Lạn Đà, đến Trung Quốc vào năm Khai Bảo thứ sáu (973), hợp sức ngài Pháp Tấn chùa Khai Nguyên ở phủ Hà Trung dịch Thánh Vô Lượng Thọ Kinh Thất Phật Tán, được vua ban áo bào màu tía. Nhận lời thỉnh của sư Pháp Tấn, ngài dịch bộ Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Kinh, được vua ban hiệu Truyền Giáo đại sư. Sư lại dịch kinh Cát Tường Trì Thế. Khi Sư mất, vua ban thụy hiệu Huyền Giác đại sư, tổng số kinh do Ngài dịch lên đến một trăm hai mươi bộ.

4[4] Gọi là Triệu Tống (960-1279) để phân biệt với nhà Lưu Tống (420-479) do Lưu Dụ sáng lập, cũng như tiểu quốc cũng mang tên Tống do tướng cướp Phụ Công Thạch chiếm cứ thời Tùy Mạt. Phụ Công Thạch thuở hàn vi thường đi trộm cắp cùng với Đỗ Phục Uy. Khi Đỗ Phục Uy nhân lúc nhà Tùy suy yếu, chiếm cứ vùng Hoài Nam, đã phong cho Phụ Công Thạch làm Trưởng Sử. Năm 623, Phụ Công Thạch làm phản, chiếm cứ vùng Đơn Dương, tự xưng là Tống Đế đặt niên hiệu là Thiên Minh. Về sau, Phụ Công Thạch bị Lý Tĩnh, Lý Hiếu Cung, Lý Thế Dân cùng vây đánh, hắn bị bắt trên đường bôn tẩu sang Cối Kê rồi bị Đường Cao Tổ (Lý Uyên) hạ lệnh giết chết.

5[5] Nguyên Ngụy tức là nhà Bắc Ngụy (386-557). Thác Bạt Khuể (còn đọc là Khuê) là một quý tộc họ Thác Bạt (Tuoba) thuộc sắc dân Tiên Ty (Tiên Ty là một sắc dân Mông Cổ, hậu duệ của sắc tộc Donghu). Đến đời vua thứ bảy là Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoành) trong nỗ lực Hán hóa dân tộc Tiên Ty, đã đổi họ Thác Bạt thành họ Nguyên, nên sử thường gọi nhà Bắc Ngụy là Nguyên Ngụy để phân biệt với những nhà Ngụy khác.

6[6] Kinh này có tên gọi đầy đủ là A Di Đà Phật Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh, một quyển, đã mất tên người dịch, được đánh số 370 trong tập 12 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

7[7] Tây Khang là tên một tỉnh được đặt ra khi chính quyền Dân Quốc còn nắm quyền cai trị Hoa Lục, bao gồm phần lớn vùng Kham của Tây Tạng. Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, chính quyền Mao Trạch Đông đã tách một phần Tây Khang nhập vào Tây Tạng Tự Trị Khu và đem phần còn lại ghép vào tỉnh Tứ Xuyên.

8[8] Lã Bích Thành (1833-1943), người huyện Tinh Đức, tỉnh An Huy, là một nhà giáo dục thời cận đại, nhiệt tình hoạt động bảo vệ nữ quyền, đề xướng giáo dục nữ giới. Năm 1903, bà được mời làm biên tập viên cho tờ Đại Công Báo, trở thành nữ biên tập đầu tiên của Trung Hoa. Năm 1904, bà làm Giám Đốc trường công lập Bắc Dương cho nữ giới. Bà từng làm Bí Thư cho Viên Thế Khải năm 1912, nhưng từ chức năm 1915, sang học tại đại học Columbia của Mỹ. Bà văn tài mẫn tiệp, còn để lại bộ Hiểu Châu Từ. Phần lớn các sáng tác của bà nhằm hoằng dương Phật pháp.

9[9] “Ủy khuất” có nghĩa gốc là bị đối xử hay bị chỉ trích không công bằng, trong tâm khó chịu, ấm ức. Ở đây, chữ “ủy khuất” được dùng với ý nghĩa ấm ức, băn khoăn vì chưa hiểu rõ.

10[10] Thật ra, trong lịch sử Trung Hoa có rất nhiều nhà Tần, ở đây, Hòa Thượng Tịnh Không chỉ kể bốn nhà Tần có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Trung Hoa:

1. Doanh Tần (221-207 trước Công Nguyên) do Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính) sáng lập, diệt vong dưới đời Tần Tam Thế (Doanh Tử Anh).

2. Tiền Tần (350-394), còn gọi là Phù Tần, do Tần Huệ Vũ Đế (Phù Hồng) sáng lập, diệt vong dưới đời Phù Sùng (chưa kịp lập đế hiệu).

3. Hậu Tần (384-417), còn gọi là Diêu Tần, do Tần Vũ Chiêu Hoàng Đế (Diêu Trành) sáng lập, diệt vong trong đời Diêu Hoằng (chưa kịp xưng đế hiệu).

4. Tây Tần (385-431), do Tần Tuyên Liệt Vương (Khất Phục Quốc Nhân) sáng lập, diệt vong dưới đời Khất Phục Mộ Mạt.

Do vùng Quan Trung, Cam Túc, Thiểm Tây thuộc lãnh thổ nước Tần thời Chiến Quốc, nên những lãnh chúa quân phiệt khi xưng vương tại vùng này thường xưng là Tần. Chẳng hạn, thời Bắc Ngụy, Mạc Chiết Niệm Sanh giết quan thứ sử Tần Châu (nay thuộc Cam Túc), chiếm cứ Tần Châu, xưng vương, lập quốc, cũng lấy quốc hiệu là Tần.



11[11] Nước Tần thời Chiến Quốc thuộc địa bàn tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Theo truyền thuyết, tổ tiên vua Tần là Phi Tử. Phi Tử vốn là hậu duệ của Nữ Tu (cháu nội vua Chuyên Húc), đến đời cháu của Nữ Tu là Bá Ích giúp vua Đại Vũ trị thủy và lại giúp vua Thuấn chăm sóc, huấn luyện thú nên được ban họ là Doanh. Phi Tử giỏi nuôi ngựa, được Châu Hiếu Vương giao chăm sóc ngựa chiến, có công, nên Châu Hiếu Vương cắt Tần Ấp (nay là huyện Thanh Thủy tỉnh Cam Túc) phong cho, coi đất phong ấy là nước phụ dung (địa vị kém hơn nước chư hầu) của nhà Châu. Năm 770 trước Công Nguyên, Tần Tương Công phò tá Châu Bình Vương thiên đô, nên Châu Bình Vương phong cho Tần Tương Công tước Bá, nước Tần chính thức trở thành nước chư hầu, mở rộng địa bàn khắp cả tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc.

12[12] Lục quốc là sáu nước chư hầu lớn thời ấy: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, và Yên. Ngoài sáu nước lớn ấy ra (nếu không kể Tần), thời Xuân Thu còn có các nước Tống, Vệ, Đông Châu, Trung Sơn, Lỗ, Đằng, Trâu, Phí v.v... nhưng thế lực các nước ấy rất yếu (có nước bị diệt vong trước khi Tần Thủy Hoàng diệt Lục Quốc, chẳng hạn Lỗ bị Sở diệt quốc vào năm 256 trước Công Nguyên, Trung Sơn bị nước Triệu diệt vào năm 296 trước Công Nguyên), nên khi Tần diệt Lục Quốc thì các nước ấy mất chỗ dựa, cũng diệt vong theo.

13[13] Đây là một trận đánh khá lớn tại Phì Thủy (nay thuộc vùng Đông Nam huyện Thọ, tỉnh An Huy) vào năm Thái Nguyên thứ ba (383) nhà Đông Tần do nhà Tiền Tần khởi xướng, quân Đông Tấn chỉ có tám vạn nhưng đã đánh tan tác mười vạn quân của Phù Kiên. Nguyên nhân là do Phù Kiên sau khi đã giết Tần Lệ Vương (Phù Sanh) đoạt ngôi, xưng là Tiền Tần Thiên Vương, lại được một mưu sĩ là Vương Mãnh giúp sức, quân lực mạnh mẽ, chỉ trong một thời gian ngắn đã diệt Tiền Yên, chiếm đất Lương (Hán Trung), Ích Châu, diệt nước Đại của dòng họ Thác Bạt, diệt Tiền Lương, đánh chiếm nhiều nơi thuộc Tây Vực. Do vậy, với tham vọng mãnh liệt, Phù Kiên bỏ qua lời khuyên của Vương Mãnh, toan làm chủ Trung Nguyên, đã phát binh đánh Tấn vào năm 378. Trải qua nhiều cuộc chiến, phe Tấn luôn thắng. Trong cuộc chiến Phì Thủy, Phù Kiên đã dốc mười vạn quân mong đè bẹp quân Tấn, nhưng thất bại thảm hại.

14[14] Thập () là chữ kép của Thập () dùng trong văn kiện, nhất là các bằng khoán, để tránh bị sửa đổi hay đọc lầm lẫn. Thập có còn nghĩa là những thứ lặt vặt. Một quyển sách cũng gọi là Thập. Do vậy, chữ Thập ở đây có nghĩa xưng tụng Ngài điều gì cũng biết, chẳng sót một điều nhỏ nhặt nào.

15[15] Con đường Tơ Lụa là một tuyến đường giao thông, buôn bán nối liền châu Á và châu Âu thời cổ. Nếu kể cả đường biển sẽ bao gồm Hồng Hải, Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á, Bắc Phi và Somalia. Con đường này dài hơn bốn ngàn dặm (6.500km) được hình thành từ thời Hán nhờ sự khám phá và sứ vụ Tây Vực của Trương Khiên. Gọi là con đường Tơ Lụa vì Trung Hoa là nước đầu tiên sản xuất tơ lụa, gấm vóc được khối Hồi Giáo và các vương quốc châu Âu hết sức ưa chuộng. Khởi đầu từ thành phố Nam Dương (tỉnh Hà Nam) cho đến Ngọc Môn Quan, Dương Quan, thông sang Thông Lãnh (Pamir) tới tận Trung Á, Tây Á, kết thúc tại vùng Địa Trung Hải của Âu Châu. Con đường này suy vi khi đế quốc Mông Cổ tan rã, khiến cho tình hình an ninh không đảm bảo, thổ phỉ cướp bóc khiến các thương gia không dám chuyển hàng nữa, cũng như do hàng hải phát triển khiến con đường chuyển vận trên bộ mất dần vai trò. Không chỉ tơ lụa, mà các hàng hóa như gai, xạ hương, hương liệu, gia vị, châu báu, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ sứ, trà, rượu, ngay cả nô lệ cũng được chuyển vận theo con đường này.

16[16] Quy () vốn là dụng cụ để vẽ hình tròn, Củ () là dụng cụ để vẽ hình vuông, nên “quy củ” được hiểu theo nghĩa rộng là phép tắc, quy định.

17[17] Đây là một thành ngữ, dùng hình ảnh ngựa cõi trời có thể sải cánh bay lượn tùy ý trên hư không, chẳng thể đoán trước được. Thành ngữ này thường dùng để hình dung khí thế của thơ văn hay thư pháp tung hoành ngang dọc, ào ạt, hùng vĩ, không thể đoán trước kết cục, diễn biến.

18[18] Hành Chánh Viện Trưởng là danh xưng để gọi Thủ Tướng của Đài Loan, tại Hoa Lục thì gọi là Tổng Lý Quốc Vụ Viện.

19[19] Từ cách đọc này trong tiếng Hán, chữ Quy Tư phải đọc đúng âm là Cưu Ty. Xứ này nằm phía Bắc sa mạc Taklamakan trong vùng trũng Tarim, phía Nam sông Muzat. Dân Cưu Ty nói tiếng Toracharian (thuộc hệ ngôn ngữ Ấn Âu), có văn tự riêng. Người Trung Hoa đã biết đến xứ này từ thời Hán. Thời Đường xứ này rất nổi tiếng về âm nhạc và ca vũ, cung đình triều Đường rất chuộng nhạc Cưu Ty, thể loại Nhã Nhạc của Trung Hoa chịu ảnh hưởng lớn từ nhạc Cưu Ty. Đàn Tỳ Bà cũng do người Trung Hoa vay mượn của dân Cưu Ty và cải tiến. Hiện thời, Quy Tư chính là thành phố Kuqa (Khố Xa) thuộc địa khu Aksu của Tân Cương Duy Ngô Nhĩ Tự Trị Khu, Trung Quốc.

20[20] Tây Vực là danh xưng để gọi chung toàn bộ những vùng đất nằm ở Thiên Sơn nam lộ (tức là tuyến đường Tơ Lụa đi từ Ngọc Môn Quan về phương Tây). Từ Ngọc Môn Quan đi về phương Tây có ba tuyến đường: Bắc, Nam, và Trung. Thoạt đầu vào thời Tùy Đường, Tây Vực bao gồm: Phía Bắc đến Phất Lâm (đế quốc Byzantine), phía Đông đến Ba Tư, phía Nam đến giáp ranh Bà La Môn (Ấn Độ). Thời Nguyên, cả khu vực Âu Châu cũng được gộp vào Tây Vực. Hiểu theo nghĩa hẹp, Tây Vực chỉ bao gồm các quốc gia Trung Á nằm dọc theo con đường Tơ Lụa. Sử Trung Hoa thường ghi các quốc danh nổi tiếng tại Tây Vực như Thiện Thiện (Lâu Lan), Nhược Khương, Ô Tra, Tây Da, Tử Hợp, Quyên Độc, Tiểu Uyên, Tinh Tuyệt, Thả Mạt, Vu Điền, Nhung Lô, Ba Sơn, Sớ Lặc, Kiệt Thạch, Nguy Tu v.v...

21[21] “Phân dã” là cách phân chia bầu trời thành mười hai cung (Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Phản Tý, Giáng Lũ, Đại Lương, Thật Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vỹ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc) của thiên văn cổ Trung Hoa, khá giống như cách chia mười hai cung Hoàng Đạo hiện thời, nhưng trong “phân dã” thì mặt đất cũng chia thành mười hai cung tương ứng với bầu trời. Do vậy, để chiêm nghiệm vận mạng một nước, quan Thái Sử thường quan sát tinh tú tương ứng với phân dã của nước ấy.

22[22] Quan Trung là vùng bình nguyên sông Vị, thuộc miền Trung tỉnh Thiểm Tây hiện thời, thuộc vùng thượng lưu sông Hoàng. Vùng này nông nghiệp trù phú, dân cư đông đảo, thường gọi là Bát Bách Lý Tần Xuyên (vùng Tần Xuyên tám trăm dặm). Do chung quanh vùng này có bốn ải là Tán Quan (ở phía Tây), Hàm Cốc Quan (phía Đông), Vũ Quan (phía Nam) và Tiêu Quan (phía Bắc) nên gọi là Quan Trung. Kinh đô Hàm Dương của nước Tần thời Tần Thủy Hoàng cũng thuộc Quan Trung.

23[23] Chữ Sư ở đây chỉ quân đội.

24[24] Tuất (): Thời cổ, quan đại phu chết được gọi là Tuất, nên cổ văn thường dùng chữ Tuất để nói về cái chết của những người đáng tôn trọng.

25[25] Ngài Huyền Trang tên thật là Trần Huy, hậu duệ của công thần Trần Thật (104-187) thời Đông Hán. Ngài thuộc gia đình vọng tộc, ông cố là Trần Khâm làm quan Thái Thú vùng Thượng Đảng thời Đông Ngụy, ông nội là Trần Khang làm quan Quốc Tử Bác Sĩ nhà Bắc Tề, cha là Trần Huệ làm huyện lệnh Giang Lăng đời Tùy. Khi Ngài sanh ra, cha đã từ quan, cõi đời loạn lạc, gia cảnh suy sút. Ngài có ba người anh, người anh thứ hai là Trần Tố, đã xuất gia trước đó tại chùa Tịnh Trụ ở Lạc Dương. Vị này có tài giảng kinh nên người đương thời thường gọi là pháp sư Trưởng Kiện.

26[26] Đôn Hoàng nay thuộc thành phố Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc. Thời Xuân Thu, do nơi này có một loại dưa ngon nổi tiếng, nên gọi là Qua Châu. Do ở trong vùng sa mạc, nên đôi khi còn gọi là Sa Châu. Tới thời Chiến Quốc, Đôn Hoàng thuộc địa bàn của Đại Nhục Chi. Nơi này từng bị quân Hung Nô chiếm lãnh một thời gian dài, đến khi nhà Hán lấy lại bèn đổi chữ viết từ 燉煌 (đồi núi lửa) thành Đôn Hoàng (敦煌), ngụ ý cầu chúc thịnh vượng dài lâu. Thời ngài Huyền Trang, Đôn Hoàng bị dân Thổ Phồn (một vương quốc của dân Tây Tạng) chiếm đóng, mãi đến đời Đường Tuyên Tông mới chiếm lại Đôn Hoàng.

27[27] Na Lạn Đà (那爛陀) là một tu viện nổi tiếng được xây dựng bởi vua Śakrāditya (Thước Ca La A Điệt Đa) của vương triều Ma Kiệt Đề. Na Lạn Đà thường được dịch nghĩa là Thí Vô Yếm (bố thí không chán), đấy là một danh hiệu của long vương hồ Amrā gần tu viện. Thuở cực thịnh, Na Lạn Đà có đến mười ngàn vị tăng tu học và hai ngàn giáo sư, là một đại học Phật giáo lớn nhất thời ấy. Riêng thư viện của Na Lạn Đà chiếm hết ba tòa nhà lớn, mỗi tòa nhà gồm chín tầng. Hiện nay, di chỉ Na Lạn Đà thuộc tiểu bang Bihar của Ấn Độ, cách thành phố Patna năm mươi lăm dặm về phía Đông Nam. Năm 1193, Khtiyar Uddin Muhammad Bin Bakhtiyar Khilji, tướng quân của vua Qutb-ud-din Aibak, Sultan xứ Delhi (người sáng lập vương triều Ghuhlam), đã tấn công tu viện Na Lạn Đà, thiêu sống hoặc chặt đầu hàng ngàn vị tăng, đốt cháy kinh sách, đập nát các kiến trúc. Theo sử gia Minhaj-ib-Siraj của Ba Tư, thư viện cháy đến vài tháng mới tắt. Tu viện trưởng Shakya Shribhadra (Thích Thắng Hiền) chạy thoát sang Tây Tạng, truyền thừa giáo nghĩa Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda). Tu viện Na Lạn Đà diệt vong.

28[28] Chánh Pháp Hoa Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, chỉ có hai mươi bảy phẩm, hơi khác với bản dịch của ngài La Thập ở chỗ phẩm Chúc Lụy được xếp vào cuối cùng, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát được xếp thành phẩm hai mươi sáu với danh xưng Lạc Phổ Hiền. Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh do Ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, gồm hai mươi bảy phẩm, và phẩm Chúc Lụy cũng được xếp vào cuối cùng.

Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 461.13 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương