Hồi Ký Hà Nội 2008



tải về 3.53 Mb.
trang16/23
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích3.53 Mb.
#34905
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   23

Chương XV: Nam Cao

Năm 1963, tôi có về làng Đại Hoàng, quê Nam Cao, cùng với Nguyễn

Hoành Khung. Lúc ấy ông bà thân sinh Nam Cao hãy còn sống. Tôi đã được

uống rượu với ông cụ, được ăn cam Đại Hoàng. Tôi còn được gặp cô Hồng con

Nam Cao và một ông em của Nam Cao. Một nông dân tên là Đạt.

Tôi về Đại Hoàng để tìm hiểu những nguyên mẫu nhân vật của tác

phẩm Nam Cao, vì biết ông hay dùng nguyên mẫu. Hồi ấy tôi có hướng dẫn một

sinh viên tên là Bạch Văn Hợp làm luận văn sau đại học (tức luận văn thạc sĩ

sau này) , đề tài là: “Từ nguyên mẫu đến nhân vật truyện của Nam Cao”.

Chí Phèo không phải là người cùng thời với Nam Cao. Đó là một nhân

vật truyền thuyết của làng. Ngày xưa có một anh Chí Phèo, làm nghề mổ lợn,

giỏi bắt phèo nên người ta gọi là Chí Phèo. Anh ta thường uống rượu say, đi

trên đường làng, chửi trời chửi đất lung tung, trẻ con chạy theo hàng đàn. Chí

Phèo không đâm chém ai cả. Còn Bá Kiến thì có nguyên mẫu tên là Bá Bính,

gần giống như Bá Kiến: bóc lột dân, dâm ô, cướp cả vợ bố, ngủ với con dâu.

Cũng có bốn vợ. Tôi có ghi lại mấy câu vè về Bá Bính của dân Đại Hoàng (dân

Đại Hoàng hay làm vè, Nam Cao gọi là trần ngôn):

Nam Sang nhất tổng Cao Đà

Có thằng Bá Nghị tên là sọc nhăng

Ông mà lại hoá ra thằng

Khôn ngoan nhất mực, nói năng ai tày

Bốn đời lý trưởng trong tay

Bao chiếm điền thổ xưa nay đã nhiều

Thuế tháng năm nhà nghèo cùng khổ

Mày lại còn lạm bổ lạm thu

Mang về xây dựng cơ đồ

Lắng tai ta sẽ bảo cho ân cần

(Theo ông Trần Doãn Chấn)

Nghe nói vợ ba Bá Bính bị ta thủ tiêu vì hay ra vào đồn giặc, người ta

cho là Việt gian. Còn vợ tư Bá Bính thì lúc chúng tôi về Đại Hoàng, vẫn còn

sống.

Chí Phèo và Bá Bính chẳng liên quan gì đến nhau cả. Bá Bính chẳng bị



ai đâm chém, còn sống mãi sau cách mạng tháng Tám, và có chân trong Hội

Liên Việt.

Như vậy là truyện Chí Phèo hư cấu nhiều, nhất là nhân vật Chí Phèo.

Nam Cao đã bịa ra vụ án mạng Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát. Ông đã sáng

tạo ra một tính cách độc đáo.

Nhưng truyện Nam Cao đã trở thành sự thật đối với thế hệ trẻ làng Đại

Hoàng. Tôi có đến xem bài viết về lịch sử làng Đại Hoàng trình bầy trên một tờ

giấy lớn đặt ở trụ sở uỷ ban xã, do một học sinh lớp 7 soạn. Anh ta ghi luôn

nhân vật truyện của Nam Cao vào lịch sử: “Xưa có một địa chủ cường hào tên

là Bá Kiến...”

Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao nói làng Vũ Đại lắm bè phái do kiểu

đất “Quần ngư tranh thực”. Điều này có thật.

Người làng còn nhớ năm cánh:

1. Cánh Bá Bính (Tên thật là Trần Duy Bính)

2. Cánh Nhất Hợp.

3. Cánh Bát Ngọ (tên là Trần Thế Ngọ). Còn có một người thật thuộc

cánh này tên là Năm Ngọ.

4. Cánh Lý Bật.

5. Cánh Bát Tụ.

Còn Thị Nở có người nói có, có người nói không. Cô Hồng, con Nam

Cao, thì nói dứt khoát: “ông ấy bịa”.

Hôm ấy tôi thử hỏi một ông người làng gặp giữa đường có biết Nam

Cao là ai không? Ông nói: “Biết chứ! Nam Cao là một cán bộ trung ương” –

Nghĩa là một ông quan cách mạng to. Ông nông dân này nghĩ thế, chắc vì thấy

nhiều người về thăm, trong đó có cả ông Tây bà đầm đi xe tu bin. Mới biết

người dân Việt nam chỉ trọng quan lại, chứ nhà văn thì là cái quái gì! Ngay ở

nhà Nam Cao, tôi thấy có mấy bức ảnh Nam Cao chụp với gia đình, bị để mốc

và hoen ố hết. Những di vật ấy thì có giá trị gì mà giữ!

Xem cảnh làng Đại Hoàng thì thấy hệt như cảnh làng Vũ Đại trong

truyện Nam Cao: Làng Đại Hoàng nhất thôn nhất xã (xã chỉ có một thôn). Đất

vườn nhiều hơn ruộng lúa. Lúa của làng chỉ đủ để nấu cháo hồ vải. Đàn ông

không biết đi cày. Đàn bà không biết đi cấy. Dân làng làm vườn là chính (gọi là

“bòn vườn”): trồng trầu, trồng cam, trồng chuối, trồng dâu:

Cây trồng cau chuối rườm rà

Cam cam, bưởi bưởi, na na, hồng hồng...

(...)Đất thơm là đất trồng trầu

Bãi bồi là đất trồng dâu cứu bần...

Đại Hoàng có nghề dệt vải. Vào làng cứ nghe ran ran tiếng lách cách

dệt cửi. Truyện Nam Cao cũng hay nói đến nghề dệt, thợ dệt (Dì Hảo, Một bữa

no...)


Người nhiều khôn khéo cũng nhiều

Dệt thoi thoi múa, thi diều diều lên

(Vè Đại Hoàng)

Đại Hoàng cũng như làng Vũ Đại, nằm bên bờ một con sông gọi là

sông Châu Giang (Gió sông thổi lên vườn chuối nhà Chí Phèo, Thị Nở gọi là

“mát như quạt hầu”)

Tìm hiểu Nam Cao nhất thiết phải gặp Tô Hoài. Ông là một nhà văn

hiếm hoi gần gũi và am hiểu Nam Cao rất sâu. (Tô Hoài có một bà dì tên là

Phượng (nguyên mẫu nhân vật Oanh trong Sống mòn của Nam Cao) lấy chồng

làng Đại Hoàng (ông giáo Bao, nguyên mẫu của nhân vật Đích trong Sống

mòn). Bà Phượng phụ trách trường Tiểu học tư thục Công Thành ở Bưởi. Nam

Cao dạy ở đó. Bà Phượng giới thiệu Nam Cao dạy tiếng Pháp cho Tô Hoài.

Nam Cao ở nhà Tô Hoài, cùng ngủ chung một giường, đắp chung một cái chăn.

Tô Hoài chưa vợ. Nam Cao có vợ rồi nhưng vợ ở quê. Đêm đêm họ tâm sự với

nhau đủ chuyện.

Theo Tô Hoài, Nam Cao cũng có đủ mọi thói xấu trên đời. Nhưng giầu

lòng thương người và rất ngây thơ, cả tin.

Có một lần hai người đi chơi gái. Họ tìm đến một nhà trọ. Phòng hết.

Có một gái điếm nói nhường cho họ phòng ngủ. Nhưng khi họ vào ngủ thì cô

gái điếm kia vào nằm chen ngay vào giữa. ả than thở về số phận như thế nào đó,

Nam Cao rất xúc động, trong khi đó, ả vẫn sờ soạng và cắn tai Tô Hoài.

Nhưng Nam Cao có một điều đặc biệt là hay xấu hổ về những thói xấu

của mình, về những chỗ tầm thường phàm tục của mình. Chỗ hơn đời, hơn

người của ông chính là chỗ đấy.

Tô Hoài kể cho tôi nghe một chuyện này, tôi cho là rất có ý nghĩa.

Trước 1950, biên giới phía Bắc nước ta còn bị tụi Pháp chiếm giữ. Con đường

số 4 từ Cao Bằng đi Lạng Sơn, Tây kiểm soát. Nó đóng nhiều đồn bốt dọc

đường, thường cho xe cơ giới có vũ trang đi lại để kiểm soát và đặt lính phục

kích ở những lối tắt qua đường. Vì thế cán bộ ta đi công tác qua đường số 4 rất

nguy hiểm. Những đoàn cán bộ muốn qua con đường này phải tập trung ở một

khu rừng gần đó (chỗ Thất Khê), chờ một trinh sát viên đi thăm dò, nếu không

có phục kích, anh ta về báo, các đoàn mới được lệnh vượt nhanh qua đường. Tô

Hoài nói, khi có lệnh xuất phát, tâm lý chung của mọi người là không ai muốn

đi đầu. Vì đã chắc gì không có phục kích. Trinh sát làm sao nắm chắc được tình

hình một trăm phần trăm! Nếu có phục kích thì anh đi đầu hẳn là toi.

Một lần Tô Hoài và Nam Cao phải đi công tác qua đường số 4. Nam

Cao cũng nhát như ai. Khi có lệnh vượt đường, Tô Hoài để ý thấy Nam Cao mặt

tái, người run. Nhưng ông nhất quyết đi đầu. Vừa run vừa đi đầu.

Tôi kết luận, Nam Cao bề ngoài lạnh lùng, ít nói, nhưng bên trong thì

sôi sục, luôn đấu tranh tư tưởng để tự vượt lên bản thân mình. Xét ra ý nghĩa tư

tưởng của truyện Nam Cao là thế: dạy cho người ta biết xấu hổ, hay nói cách

khác, muốn lay tỉnh ở con người ý thức về nhân phẩm, nhân tính. Không phải

chỉ nhân vật trí thức, ngay thằng Chí Phèo cũng đấu tranh tư tưởng để trở lại

làm người lương thiện. Chí Phèo chết như một người khao khát trở lại làm

người.

Nguyên Hồng, Kim Lân đều rất phục Nam Cao.



Lần đầu Kim Lân gặp Nam Cao ở nhà Nguyễn Huy Tưởng, phố Lò

Đúc. Ông thấy Nam Cao rất khiêm tốn, tự thấy minh tầm thường. Lắm mặc

cảm. Có vẻ lạnh nhạt. Không thích vồ vập ai.

Đến kháng chiến chống Pháp thì có thời gian họ ở với nhau. Nam Cao

tỏ ra kính trọng mọi người, phục mọi người, chỉ thấy mình là xoàng. Nhưng có

một lần, uống rượu với thịt châu chết. Kim Lân bốc lên hát tuồng. Như Phong

rút súng lục đùa dí vào cổ người khác. Còn Nam Cao thì lớn tiếng: “Tao đéo

phục thằng Goocki”. Té ra con người này cũng không hẳn chỉ có khiêm tốn

đâu! Nam Cao chỉ phục Sêkhốp, cho Goocki ồn ào quá.

Bản thảo của Nam Cao viết rất sạch sẽ. Nhưng không quý bản thảo của

mình. Bản thảo Sống mòn nhờ có Nguyên Hồng giữ mới còn, giữ trong suốt

cuộc kháng chiến, đến khi hoà bình lập lại mới giao cho Hội văn nghệ. Tên

truyện vốn là Chết mòn. Khi in, Xuân Thuỷ đề nghị sửa là Sống mòn.

Nam Cao nhát. Rất sợ máy bay. Kim Lân cho biết như thế. Mỗi lần có

máy bay, ông chạy vội xuống hầm, chui chui, nấp nấp, rất tội. Thế mà ông đã bị

giặc bắt và đem ra bắn.

Hồi ấy Nam Cao vào Thanh hoá dự một hội nghị về văn nghệ. Hội

nghị kết thúc, lẽ ra ông trở về Việt Bắc theo đường số 6. Nhưng ông lại muốn đi

vào vùng địch, tạt về thăm làng mình nghe nói đã thành làng du kích. Ông có

nguyện vọng viết về làng Vũ Đại đứng lên đánh giặc. Đã viết được mấy chục

trang nhưng tự thấy không ra gì nên vất đi. Ông cho là vì thiếu thực tế, nên nhân

dịp này về làng để tìm thực tế. Ông đi theo một đoàn cán bộ tuyên truyền thuế

nông nghiệp, đóng vai một anh y tá hay cán bộ Bình dân học vụ gì đó. Họ đi

bẩy cái thuyền nan, vì lúc đó vùng chiêm trũng Ninh Bình, Hà Nam nước trắng

băng. Nam Cao cùng mấy cán bộ lãnh đạo ngồi chiếc thuyền đầu. Vừa ghé đến

làng Vũ Đại thì sa lưới bọn Commandos. Đoàn đã được thông báo đêm ấy

chúng đã rút đi rồi, hoá ra có một toán đóng ở lại. Thật không may cho Nam

Cao!


Không biết lúc viết Chí Phèo, Chết mòn (tức Sống mòn), Nam Cao đã

tới hay đã nghe nói có một cái làng thật tên là Vũ Đại hay chưa. Làng này thuộc

tỉnh Ninh Bình, giáp với Hà Nam, kề ngay đường số 1 (nay thuộc xã Gia Xuân,

huyện Gia Viễn). Chẳng lẽ lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên một cách kì lạ

thế sao giữa một cái tên làng trong truyện hư cấu với một cái tên làng có thật –

cũng không xa làng Đại Hoàng của Nam Cao bao nhiêu. Một sự kì lạ nữa là

Nam Cao lại bị bắt ở đúng cái làng mang cái tên ấy và bị bắn chết ở đó. Mà sao

ông lại đi trên cái thuyền đầu? Các thuyền sau họ đều chạy thoát cả. Số mệnh

xui nên thế, hay là lại do cái tính cách “vừa run vừa đi đầu” như cái hồi vượt

đường số 4 với Tô Hoài năm nào?

Mà lẽ ra Nam Cao có thể chưa bị thủ tiêu, nếu như đêm ấy không có

chuyện một người trong đoàn cán bộ bị bắt bỏ trốn mà không thoát. Bắt được

mấy cán bộ ViệtMinh ở làng Vũ Đại, bọn Commandos đưa tất cả qua đường số

1 sang giam ở nhà thờ Mưỡu Giáp cách làng chừng vài ba trăm mét. Do cuộc

trốn chạy thất bại của anh cán bộ kia, chúng đem tất cả ra bắn ngay tại cánh

đồng Mưỡu Giáp trước cửa nhà thờ. Đó là vào một đêm tháng 11 – 1951, Nam

Cao mới 36 tuổi.

Như đã nói, viết truyện, Nam Cao hay dùng nguyên mẫu.

Hầu như toàn bộ nhân vật trong Sống mòn đều có nguyên mẫu cả, và

hầu hết đều là người làng Đại Hoàng: nhân vật Oanh, nguyên mẫu là Phượng,

một bà dì của Tô Hoài. Chồng của Oanh là Đích, nguyên mẫu của Đích là giáo

Bao, người Đại Hoàng. San nguyên mẫu là Trần Đức Phấn, hồi Pháp thuộc từng

đăng lính sang Tây, sau 1945 xung phong theo đoàn quân Nam tiến. 1954, tập

kết ra Bắc, đóng lon trung tá, có thời gian phụ trách điện ảnh quân đội. Mô (anh

lao công đánh trống trường), nguyên mẫu là Trần Văn Đa, sau cách mạng xung

phong đi phát triển kinh tế miền núi ở Phú Thọ. Bá Kiến, nguyên mẫu là Trần

Duy Bính. Liên vợ giáo Thứ, nguyên mẫu là Trần Thị Sen vợ Nam Cao. Còn

giáo Thứ, nguyên mẫu là tác giả - Trần Hữu Tri, tức Nam Cao.

Sách viết xong năm 1944. Nhưng mãi đến 1956 mới in được.

Trong một bài viết về Nam Cao, Nguyễn Đình Thi cho rằng do tác

phẩm phê phán hiện thực như thế nào đấy nên kiểm duyệt thời Pháp không cho

xuất bản. Thực ra không phải. Có hai lý do: một là khoảng năm 1940 – 1945, do

chiến tranh, giấy khan hiếm. Cuốn tiểu thuyết của Nam Cao lại khá dầy mà tác

giả chưa phải là một tên tuổi ăn khách lắm. In ra, các nhà xuất bản sợ bán không

được. Hai là tác phẩm viết quá sát sự thật về toàn những người quen biết trong

làng mình. Vì thế sách in ra cũng ngại. Ông nói với Tô Hoài, đại ý là phải đợi

cho các nguyên mẫu kia “tịch” hết cả đi rồi mới in được.

Năm 1956, khi sách được xuất bản, hầu hết các nguyên mẫu đều còn

sống cả, chỉ duy có nguyên mẫu của nhân vật giáo Thứ, tức Nam Cao, thì không

còn sống cả, chỉ duy có nguyên mẫu của nhân vật giáo Thứ, tức Nam Cao, thì không

còn nữa.

Nam Cao có một tập nhật ký. Tô Hoài giao cho HMĐ. Trong cuốn

sách HMĐ viết về Nam Cao, in năm 1960, 1961 gì đó (Nam Cao, nhà văn hiện

thực xuất sắc), anh có trích vài đoạn trong cuốn nhật kí này.

Cuốn nhật ký ấy nay ở đâu? chắc vẫn trong tay HMĐ. Có của quý, cứ

giữ độc quyền, mà không biết dùng, thật phí. Giống như có gươm báu mà

không biết dùng. Giữ làm gì!

Láng Hạ, tháng 11 – 2007.


Chương XVI: Tô Hoài

 

Tôi tiếp xúc với Tô Hoài rất sớm. Từ những năm 60 của thế kỉ trước.

Nhưng mãi đến năm 2000, tôi mới viết được một bài về ông.

Tôi trước sau vẫn thế, khi viết về một nhà văn nào đó mà chưa hiểu tư

tưởng chi phối một cách có hệ thống sự nghiệp sáng tác của ông ta, thì tôi

không thể viết được. Về Tô Hoài, tôi cứ nghĩ mãi không biết tư tưởng của ông

là gì. Nhiều tác phẩm của ông tôi thích, nhưng không tìm ra một tư tưởng

chung. Tư tưởng Nguyên Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn với

những giá trị văn hoá cổ truyền của đân tộc; Nam Cao là nỗi đau đớn trước tình

trạng con người không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng cơm manh áo và

cái chất hèn, chất nô lệ đã thấm vào trong máu không biết từ kiếp nào. Xuân

Diệu là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần thế này... Còn tư

tưởng Tô Hoài là gì? Tôi lúng túng quá! Trong khi đó, Xuân Diệu có lần nói với

tôi: “Tô Hoài nó chẳng có có tư tưởng gì cả. Nguyễn Đình Thi còn có tư tưởng,

chứ Tô Hoài chẳng tư tưởng gì”. Tôi lại càng hoang mang. Một nhà văn cỡ

như Tô Hoài mà không có tư tưởng! Vô lý quá!.

Hồi tôi biên soạn cuốn Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, 30B (1979,

1980), tôi có đến Tô Hoài mấy lần (ở Đoàn Nhữ Hài). Tôi có một anh bạn tên là

Phan Ngọc Thu, phụ trách trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn

của Đại học Đà Nằng. Anh đứng ra tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn cho

các giáo viên PTTH chuyên văn ở miền Trung, miền Nam. Anh thường mời tôi

và Tô Hoài vào giúp. Vì thế, tôi có dịp gặp Tô Hoài nhiều lần, khi ở Đà Nẵng,

khi ở Bến Tre hay Long Xuyên...

Tôi để ý thấy Tô Hoài, ở đâu cũng thế, mua hết các báo chí hàng ngày

để đọc.Cả báo trung ương và báo địa phương. Đọc cả những tin vặt vãnh linh

tinh. Ông rất chăm đọc báo, nhưng không thích xem ti vi và phim ảnh, dù là

phim Vợ chồng A Phủ do ông soạn kịch bản.

ở khách sạn Long Xuyên có một cái núi non bộ lớn, người ta nuôi cá,

nuôi khỉ, nuôi bồ nông, cò, vạc... Cứ xích chân, xích cổ vào hòn giả sơn. Tôi

thấy Tô Hoài cứ đứng hàng giờ quan sát các con vật và thỉnh thoảng lại phát

hiện ra một điều gì lạ ở chúng, như chân con vạc nó thế nào đấy, hay con khỉ lại

biết chơi trò thủ dâm...

Thì ra Tô Hoài thích quan sát tỉ mỉ, phát hiện những cái lạ ở người hay

những con vật tầm thường quen thuộc quanh ta. Cho nên ông viết nhiều về

phong tục của người dân Nghĩa Đô, quê ông. Và trong thời kháng chiến chống

Pháp, công tác ở Viêt Bắc, ông thích viết về phong tục độc đáo của những dân

tộc H' Mông, Mán... Phong tục, theo tôi, chính là những chuyện lạ đời thường

của các dân tộc. Ông phát hiện người H’mông sinh hoạt có nhiều cái rất Tây:

Váy áo như đầm. Gọt khoai, gọt củ, quay ngược lưỡi dao vào trong. Ăn bánh

bột ngô để nguội hàng tuần như người Tây ăn bánh mì, dùng thìa gỗ hoặc bốc,

không dùng đũa. Theo đạo tin lành. Ông đọc sách của Sabina nói người

231


H’mông đi từ phương Tây, qua Đông Âu, Bắc á rồi bị dồn xuống phương Nam.

Thuyết của Tầu thì cho người H’mông vốn ở vùng sông Dương Tử di cư xuống.

Tô Hoài cho thuyết của Tây đúng hơn. Người Mèo rất khái tính, bị xúc phạm là

tự tử (bằng lá ngón). Nhà có con gái đẹp, thanh niên kéo đến quấy nhiễu đông

quá, có khi ông bố đem súng ra bắn để giải tán. Thời Tây, công sứ Châtel thi

hoa hậu chỉ thi con gái dân tộc thiểu số như gái Hmông, gái Mường, gái Mán...

Tô Hoài, ở Hà Giang, đã gặp hai người đàn bà từng thi hoa hậu ở Hà Nội thời

Pháp thuộc. Người Mán khi ăn xong, cả nhà tắm nước nóng rồi lại mặc quần áo

cũ và đi đất. Về chuyện chợ tình Sa Pa, Tô Hoài cho biết, sự thực, đối với người

Mèo, người Mán, chợ là nơi ăn chơi, nơi gặp gỡ người quen, trong đó có

chuyện trai gái. Nay ta biến thành chợ tình. Rất nhảm!

Tô Hoài hay tả kỹ loài vật và cũng thấy ở chúng có lắm “phong tục” lạ

như người vậy thôi. Sở trường tả loài vật, ở Tô Hoài, xét ra cũng nằm trong cảm

hứng phong tục. Mà hình như về phương diện này, ông cũng chẳng phân biệt

người hay vật. Trong tập truyện O chuột, ông viết về toàn loài vật quanh ta,

nhưng lại xen vào đó một truyện về người (Cu Lặc). Truyện này Nguyễn Minh

Châu rất thích. Ông kể chuyện Cu Lặc không khác gì con vật. Vợ chồng gặp

nhau, lấy nhau do bản năng tình dục.Và họ bỏ nhau vì cả hai đều ăn khoẻ quá,

không sống nổi với nhau được.

Tô Hoài khác với phần lớn văn nghệ sĩ, không ngại làm những công

việc sự vụ hành chính, những công việc vặt vãnh chẳng “văn chương” chút nào.

Ông nhận đủ việc, từ đại biểu quốc hội, chấp hành Hội nhà văn trung ương, chủ

tịch Hội văn nghệ Hà Nội, đến tổ trưởng khu phố. Việc gì cũng làm. Cũng đi

tuần tra ban đêm, cũng đôn đốc “triệt để chó”, cũng đến từng gia đình kiểm tra

hố xí hai ngăn... Về hưu, ông không sinh hoạt chi bộ ở cơ quan Hội nhà văn như

hầu hết các nhà văn cao tuổi khác, mà sinh hoạt với chi bộ địa phương. Và ông

không muốn người ta biết mình là nhà văn. Vì ông thích nói chuyện với mọi

người như một người thường nói chuyện với người thường về những chuyện

thường.

Tôi để ý đến cặp mắt của ông: nhỏ, dài và hẹp. Gọi là mắt ti hí. Mắt

như thế là tinh quái lắm. Cái gì cũng biết, không gì qua mắt được. Mà toàn phát

hiện những điều ngộ nghĩnh, buồn cười ở người ta và diễn đạt bằng một vài từ

rất gọn và đích đáng. Người nào bị phát hiện ở khía cạnh ấy lập tức trở thành

tầm thường. Ngay – danh nhân, vĩ nhân cũng vậy. Thí dụ, ông cho Nhật kí

trong tù của Hồ Chí Minh chỉ là một tập thơ kêu oan. Kể ra cũng đúng:

Ta người ngay thẳng lòng trong trắng

Lại bị tình nghi là Hán gian

(Đường đời hiểm trở)

Hôm nay xiềng sắt thay giây trói

Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung

Tuy bị tình nghi là gián điệp

Mà như khanh tướng vẻ ung dung

(Đi Nam Ninh)

232


Những bài thơ như thế thì đúng là thơ kêu oan. Nhưng coi Nhật kí

trong tù chỉ là tập thơ kêu oan thì quả là đã tầm thường hoá tập thơ của cụ Hồ.

Phạm Tiến Duật khi nói thì đúng là khua môi múa mép, ông gọi là

thằng lái trâu. Còn Chế Lan Viên thì ông gọi là thằng “nặc nô” của Đảng. Ông

phát hiện Huy Cận ngày nào cũng ra trụ sở Hội Liên hiệp văn nghệ (51 Trần

Hưng Đạo), tuy chả có việc gì cả, chỉ cốt được ăn một bát phở miễn phí. Huy

Cận rất tham, đi đâu cũng vơ vét, càm cắp. Tô Hoài kể chuyện, một lần ông và

Nguyên Ngọc tình cờ gặp Huy Cận ở sân bay quốc tế Mạc Tư Khoa. Tự nhiên

Cận lân la đến vỗ vai nói chuyện thân mật với Nguyên Ngọc. Tô Hoài vội bấm

Nguyên Ngọc lảng đi: “Này nó sắp gạ ông xách đồ cho nó đấy!”. Quả nhiên,

sau đấy Huy Cận hai tay xách hai cái cặp nặng, lại buộc giây kéo một cái thùng

giấy lệt xệt đằng sau. Buồn cười nhất là ông phát hiện Nguyễn Xuân Sanh sở dĩ

bị Tố Hữu ghét, vì chỉnh huấn, chuyển biến nhanh quá, không đúng quy luật -

đấu tranh tư tưởng thì phải lâu dài gian khổ chứ! Còn Hoàng Cầm thì hồi bị tù,

hết hạn người ta cho ra, lại xin ở lại thêm để viết nốt bản kiểm thảo. Ông cho

biết Thợ Rèn sở dĩ nổi tiếng là vì lúc đầu người ta tưởng là Cụ Hồ, là bút danh

của Cụ Hồ. Thanh Tịnh thì ai đến chơi cũng đem đồ cổ ra khoe. Nhưng theo Tô

Hoài, ông ta cứ tán ra thế thôi, chứ nhiều cái ông ta bê ở Bát Tràng về. Bùi

Giáng thì rất mê Kim Cương, chỉ ước khi chết, được Kim Cương đái lên mồ...

Trương Tửu là tay huênh hoang thế thôi, thực chất chỉ là trôtkit mồm... Mấy

ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Đồ Phồn, Huyền Kiêu thì tự thấy trước cách

mạng có tội nên ra sức nịnh đảng...

Có những chuyện có lẽ chỉ có Tô Hoài mới đi kể với người khác. Vì là

chuyện rất nhếch nhác, rất bẩn. Mà là chuyện của bản thân ông. Tôi nhớ hồi ở

khách sạn Traphaco, Đà Nẵng, tự nhiên ông kể với tôi chuyện ấy. Chứ tôi có

hỏi đâu, có biết đâu mà hỏi: “Hồi hoạt động Văn hoá cứu quốc ở Hà Nội, bị lộ,

nó bắt bốn người: Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hữu Đang, Như Phong

và đưa về Nam Định xử. Vì Vũ Quốc Uy bị bắt ở Nam Định khai ra. Nguyễn

Đình Thi, Như Phong, gia đình có tiền chạy án nên được tha. Tôi và Nguyễn

Hữu Đang nhờ thế cũng được tha. Trước khi thả ra, nó giam chúng tôi ở nhà

lao Nam Định, bốn thằng giam chung một phòng. Ngồi buồn tình, bốn thằng tụt

quần ra thi cái ấy xem cái của thằng nào to. Của Thi dài đuỗn ra như quả chuối

tiêu, được nhất, Nguyễn Hữu Đang nhì, nhưng Đang không chịu vì Đang cho

của mình ngắn hơn nhưng to hơn. Tô Hoài và Như Phong bét.

Đấy, gặp Tô Hoài một hai buổi là biết đủ mọi thứ chuyện linh tinh như

thế. Và nghe ông nói một chập, thấy con người ta, nói chung đều tầm thường cả

thôi, đều là người thường vậy thôi. Mà cuộc đời không có ai là thần thánh thì

cũng vui, thì càng vui chứ sao! Tôi chắc Tô Hoài nghĩ như thế. Vì khi kể những

chuyện ấy, ông có vẻ lấy làm thú vị.

Nhận xét văn của người khác, Tô Hoài cũng thường phát hiện rất tinh

những nhược điểm. Thí dụ, văn Anh Đức là thứ văn cải lương, có lúc viết anh

hùng là “hùng anh”. Nguyễn Khải xây dựng nhân vật theo lối ghi chép rất sáng

tạo, nhưng văn Nguyễn Khải vậy mà chưa thoát được lối biền ngẫu. Nguyễn

233


Đình Thi là anh sinh viên, rất xa đời sống, nên mắt không chọc thủng được tờ

giấy để nhìn vào hiện thực. Thi tả cảnh chùa có cây bạch đàn. Xưa làm gì có

bạch đàn ở chùa! Thơ Bùi Giáng, theo ông cũng là một thứ thơ Bút Tre. Thơ

Hoàng Cầm thì là thứ vàng mã trang kim. Một thứ thơ trang sức hoa lá cành,

sơn son, giát vàng, thực chất không có gì. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức viết văn

học sử, tuy có tài liệu đấy, nhưng không có hồn. Lưu Trọng Lư giờ hết thời rồi.

Tài năng cũng chỉ có một thời thôi. Thơ Huy Cận và thơ Tố Hữu giờ chỉ còn là

thơ thù tạc. Vậy mà Huy Cận cứ tuyên bố: “Chưa bao giờ tôi sáng tác dồi dào

như bây giờ”... Tô Hoài biết rõ cả lai lịch Bút Tre. Bút Tre tên thật là Đặng Văn

Đăng, sáng tác trước cả Tô Hoài, ký tên Lục Y Lang, Chàng áo xanh, có bằng tú

tài Tây. Bút Tre định lăng xê một kiểu thơ sử dụng rộng rãi enjambement, chứ

không phải anh vô học làm thơ... Tô Hoài đọc cả những cây bút trẻ. Ông cho

bọn này có học. Viết được. Nhưng thiếu một cái gì đó. Thiếu chữ của riêng

mình, thiếu phong cách. Hồ Anh Thái, viết mới đấy. Nhưng rắc rối, khó hiểu.

Chưa thấy hay. Bọn trẻ nói chung rất kiêu ngạo. Nguyễn Huy Thiệp giỏi viết cái

ác. Phạm Thị Hoài rất trí thức, đồng thời lại muốn dân dã...

Một điều lạ là Tô Hoài biết cả những chuyện đời tư, rất riêng tư, thậm

chí cả những chuyện thầm kín của người ta một cách rất cụ thể. Biết có đầu có

đuôi, có ngành có ngọn, nói ra vanh vách. Ông nói, do phụ trách đảng uỷ văn

nghệ nên biết nhiều chuyện, nhất là qua những đợt kiểm tra đảng.

Một vài ví dụ: Ngân Giang từng lấy nhiều chồng, có nhiều con. Hồi

kháng chiến ở vùng tự do dinh tê vào thành. Giải phóng Hà Nội là viên chức

lưu dung. Vì thế có mặc cảm, nên hay khoe mình đã tham gia kháng chiến.

Anh Thơ lấy một bác sĩ tên là Vịnh, người miền Nam tập kết, công tác

ở bênh viện Việt Xô. Bà Trường và Nguyễn Đình Thi làm mối. Anh Thơ có

thời gian vào Nam, làm tập thơ Quê chồng. Sau lại bỏ ra Hà Nội. Chồng theo ra

và chết ở Hà Nội. Hồi kháng chiến Anh Thơ định lấy Tây địch vận. Hồi ấy có

phong trào phụ nữ xung phong lấy hàng binh làm địch vận cho ta. Sau có người

theo chồng sang Pháp, tự hào là đã tham gia công tác cách mạng, như diễn viên

múa Thuý Cẩm... Lấy Tây cũng là hy sinh vì nước, như Chiêu quân cống Hồ

trong truyện cổ...

Anh Thơ viết hồi ký bịa ra nhiều chuyện cụ thể như thật. Vì có mặc

cảm mình xấu nên cứ bịa ra là mình ngày xưa rất đẹp, lắm người mê, như

Nguyễn Bính chẳng hạn. Tô Hoài nói : “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc

Bính đã xúc động gì. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ

cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trâu. Tính thì đồng bóng. Sang Liên Xô với

Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh, lại hỏi thăm Goocki, tưởng ông ấy còn sống.

Anh Thơ mà đẹp thì chết với tôi rồi!”.

Nguyễn Bính xấu giai thế mà lắm vợ. Bính là con một ông có Hán học,

phụ trách trạm ngựa. Nhà khá nhưng sa sút. Giống gia đình Nam Cao. Vì thế

Trúc Đường là anh thì được học hành tử tế (như Nam Cao), còn Bính thì không

được học mấy.

Bính vào Nam, từ trước 1945. Năm 1954, không có tiêu chuẩn tập kết

234


vẫn cứ ra Bắc. Trước khi ra Bắc có lấy một người vợ đẻ ra cô con gái nay phụ

trách Sở Giáo dục Bến Tre. ở Hà Nội, Tố Hữu bầy ra tờ báo tư nhân Trăm hoa

giao cho Bính. Bính làm trái ý Tố Hữu, bị phê phán, Bính bực mình bỏ đi Nam

Định. Bính có hai vợ chính thức. Hiện cả hai đều làm bảo tàng lưu niệm

Nguyễn Bính.

NTNT trước dạy học ở Sơn Tây, có mối tình đầu với Nguyễn Quang

Sáng, Sáng giúp T viết văn. T có lần tặng Sáng một bó hoa bảo là vừa tự tay

hái ở vườn về. Sáng xem hoa thấy không có cuống, cắm tăm, tức lắm, tìm T, tát

cho một cái. T hay viết nhật ký, Chánh là chồng, bắt được, lộ hết chuyện bồ

bịch. NTTH lắm lúc chất vấn mẹ: “Con là con ai? Con Nguyễn Quang Sáng,

Thu Bồn, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Văn Bổn, Xuân Trình... hay ông Chánh?

H cũng đã có hai đời chồng.

PTTN cũng có hai đời chồng. Sau yêu một bồ nhí, có cưới hẳn hoi,

nhưng sau nó bỏ. Không có con. (Tôi hỏi Tô Hoài: “Dương Thu Hương bảo tôi,

YN thì mê Nguyễn Đình Thi, còn PTTN thì mê Tô Hoài , có đúng thế không?”

Tô Hoài nói: “Cô ấy xấu, tôi không thích”.

Bạch Diệp lấy Xuân Diệu. Vì cao tuổi mới lấy chồng nên thiết thực và

cảnh giác. Đám cưới tổ chức to nhưng không đăng kí kết hôn. Xuân Diệu chắc

do thủ dâm nhiều nên bất lực. Như gà nhẩy lên là tuột ngay. Bạch Diệp bỏ luôn,

sau có lấy chồng khác nhưng không có con.

Nguyễn Đình Thi lấy vợ sớm, có ba con, hai trai, một gái: Lễ, Chính,

Như. Thi ở gửi rể. Vợ chết, gia đình vợ định gả cô em tên là Nghĩa cho. Nhưng

cô này bị sốt ác tính chết. Hoà bình lập lại, Thi cần có vợ, định nhằm con gái cụ

Ngô Tất Tố hay cô Hồng con Nam Cao. Sau người ta làm mối lấy bà Trường,

nhưng không có con. Thi nam tính mạnh, người đen, nói chuyện có duyên, đàn

bà thích. Nhưng Thi là tay bạc tình, ngủ với cô này đã nghĩ đến cô khác. Gia

đình Nguyễn Đình Thi như cái địa ngục. Thi hay bồ bịch, còn bà Trường thì

ghen ghê gớm. Gia đình cụ Ngô Tất Tố cũng thế, cụ sống với hai bà vợ suốt

ngày xung đột...

Chế Lan Viên trước cách mạng, có thời gian dạy học ở Đà Nẵng. Có

một nữ sinh tên là Giáo rất mê. Giáo nhà giầu, gia đình không cho lấy Chế Lan

Viên. Cô cứ đến ở với Chế Lan Viên, mãi đến cách mạng tháng Tám mới cưới.

Hoà bình lập lại ở miền Bắc, hai vợ chồng sống ở Hà Nội. Chế Lan

Viên ốm, phải sang chữa ở Trung Quốc. Giáo ngoại tình với một tay làm mi báo

tên là Quang. Chế Lan Viên chữa bệnh về, biết chuyện nhưng định bỏ qua. Hai

vợ chồng đêm nằm đắp chung chăn, nói chuyện. Giáo nói, cái đầu của em thì

thuộc về anh, nhưng thân mình em thì thuộc về Quang. Vậy là họ không trở lại

với nhau được. Sau Chế Lan Viên lấy Vũ Thị Thường, cán bộ phụ nữ, quê Thái

Bình, đã quá lứa lỡ thì. Thường xui Chế vào Sài Gòn ở, một là Thường có bà

con di cư ở trong ấy, hai là vì vợ cũ của Chế hay đến bám quấy nhiễu, xin tiền...

Đúng là chẳng có chuyện gì dấu ông được. Ông biết cả chuyện Lưu

Trọng Lư túng tiền, ăn cắp xe đạp của Chế Lan Viên bán; Học Phi thì hủ hoá

nhiều quá, biết tội nên xin đi B. Còn Trần Huyền Trân thì sở dĩ bị khai trừ, vì

235


lấy vợ nghệ sĩ, hai vợ chồng cứ dắt nhau đi lang thang biểu diễn, không sinh

hoạt đảng. Lê Văn Trương thuộc thế hệ đàn anh của ông, nhưng ông có đến nhà.

Ông rất sợ, vì trên bàn Lê Văn Trương có bầy hai cái đầu lâu. Lê Văn Trương,

Đinh Hùng thích chơi đầu lâu. Lê Văn Trương tiêu sài rất hoang vì viết khoẻ, có

tiền. Ông quen cả hai tay nhà văn tên là Hiến và Hồng viết thuê cho Lê Văn

Trương vì túng tiền. Tô Hoài không thích văn Lê Văn Trương nhưng thích nhân

vật người hùng của Lê Văn Trương. Triết lý sức mạnh của Lê Văn Trương là do

Trương đọc bản dịch Nietzsche của Phạm Ngọc Khuê. Khuê và Trương Tửu là

trốtkit...

Về vụ Nhân văn – Giai phẩm, thế mà không phải ai cũng biết rõ. Tô

Hoài thì nắm được từ gốc đến ngọn. Theo Tô Hoài, đó thực chất là một vụ án

chính trị, nhưng vì quàng vào một số nhà văn nên người ta cứ tưởng là một vụ

án văn chương. Nhân sai lầm của cải cách ruộng đất và ta chuẩn bị cải tạo tư

sản ở Hà Nội, hai thằng Tây, một là Tổng giám mục ở nhà thờ Hà Nội tên là

Dudley, hai là tay tuỳ viên văn hoá của Sứ quán Pháp tên là Durand Fischer,

bèn xúi giục mấy ông đảng xã hội: Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hoè

đòi ngang quyền với đảng Lao động. Fischer có liên hệ với Nguyễn Hữu Đang,

Thuỵ An, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo). Lúc này tư nhân ra báo không phải xin

phép (hồi ấy ta vẫn còn theo chế độ của Pháp). Ta bắt ba người có dính đến

Pháp là Đang, An và Bảo. Còn hai thằng Tây thì ra lệnh trục xuất khỏi Việt

Nam sau một tuần lễ. Còn Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hoè thì lặng

lẽ cho thôi thứ trưởng. Chuyện có thế thôi, có thể tổng kết rõ ràng, nhưng chẳng

có ai làm cả. Bây giờ sửa sai thì cứ lặng lẽ kết nạp lại vào Hội nhà văn và tặng

giải thưởng Nhà nước cho mấy ông Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... Cho nên

vụ án vẫn mù mờ chưa mấy người hiểu rõ.

Tổng chỉ huy chống nhân văn là Hoàng Văn Hoan. Tố Hữu chỉ là

người thừa hành.

Ta có một trại giam tù chính trị ở Quảng Bạ (Hà Giang). Có người bị

giam suốt đời ở đó như Chu Bá Phượng. Còn Nguyễn Hữu Đang thì bị giam 15

năm. Khi ra tù, phụ cấp cho 40 đồng một tháng. Đang khi ra tù không hề biết có

cuộc chiến tranh chống Mỹ và sự kiện giải phóng miền Nam 30.4.1975.

Đúng là Tô Hoài cái gì cũng biết. Mà toàn thiên về phía mặt trái của

cuộc đời, mặt trái của người đời.

Những hiểu biết tỉ mỉ, thóc mách như thế, ông cứ nhẩn nha, đều đều kể

lại với tôi. Có lẽ vì ông thấy tôi khoái những chuyện ấy và ông cũng thích kể

những chuyện ấy.

Vậy là đã rõ. Tôi bèn viết bài Tô Hoài với quan niệm con người là con

người. Tôi cho rằng tư tưởng chi phối mọi tác phẩm củaTô Hoài là thế. Nghĩa là

trên đời này chẳng có ai là thần thánh gì hết. Cho nên Tô Hoài có cảm hứng đặc

biệt viết về đời thường, người thường, chuyện thường. Cứ đều đều một giọng

sành sỏi lọc lõi, cố che dấu một nụ cười tinh quái, có phần khinh bạc. Tô Hoài

có lúc còn chủ trương viết những chuyện chẳng cần có chuyện, càng nhạt càng

hay – có lần ông nói với tôi như vậy và tự thấy là một thuyết kì quặc của mình.

236


Nhưng ông từng nghĩ như thế. Mỹ học của Tô Hoài là như vậy chăng?

Tất nhiên trong thời chiến tranh, ông không thể không phải khuôn theo

xu hướng chung của nền văn học cả nước, nghĩa là phục vụ chính trị, ca ngợi

chủ nghĩa anh hùng. Nhưng ngay thời ấy, đôi khi ông cũng cho xen vào ít

nhiều khía cạnh “người thường” ở những nhân vật anh hùng. Như nữ cán bộ

cách mạng Hai Tâm đa dâm, lẳng lơ trong tiểu thuyết Mười năm chẳng hạn. Tác

phẩm này vì thế đã từng bị phê phán kịch liệt. Thậm chí dân Hà Đông còn kéo

đến phản đối tác giả, cho là ông đã bôi nhọ người quê mình.

Còn những tác phẩm như Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,

Kim Đồng, Vừ A Dính, Miền Tây thì đúng là chuyện anh hùng. Nhưng ông tự

đánh giá chỉ có những trang tả cảnh miền núi là đáng kể, ngoài ra không có gì

đặc sắc. Cảnh chiến đấu viết không bằng cảnh phong tục.

Nhưng truyện Tô Hoài viết sau 1975, nhất là sau 1986, mới thực sự là

Tô Hoài: Chiều chiều, Cát bụi chân ai, Ba người khác, Giấc mơ ông thợ dìu...

Chuyện đời thường, người thường nổi trội hẳn lên. Nhưng thường mà vẫn lạ

mới là vănTô Hoài. Phát hiện những cái lạ trong những chuyện vặt vãnh đời

thường chính là chỗ sắc sảo, lọc lõi, tinh quái của ông. Vì thế tôi gọi Tô Hoài là

“Nhà văn của chuyện lạ đời thường”.

Nhớ hồi ông làm nhóm trưởng nhóm nghiên cứu một đề tài khoa học

(đề tài “Văn hoá và phát triển”), có Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn, Ngọc

Trai tham gia. Hoàng Ngọc Hiến kể rằng, ông đưa Ngọc Trai vào chẳng qua là

để tổ chức những bữa liên hoan cho tốt, vì Ngọc Trai người Huế, nấu ăn rất

giỏi. Mỗi lần họp nhóm, Hiến để ý thấy ông tỏ ra khó chịu khi anh đến đúng

giờ. Rút kinh nghiệm, lần sau anh đến muộn, quả nhiên thấy ông tươi vui hẳn

lên. Đúng ông rất ghét quan trọng hoá. Đến đúng giờ tức là quan trọng hoá.

Chắc hẳn, ông nghĩ, làm khoa học ở cái nước này là chỉ làm chơi, cốt tiêu tiền

nhà nước cho vui thôi mà. Có gì quan trọng đâu!

Đối với chuyện viết văn, Tô Hoài cũng không hề quan trọng hoá: Viết

văn khó, nói thế thì đúng, nhưng nói là một nghề đặc biệt khác thường thì

không phải. Cũng như các nghề khác thôi, như làm ruộng, làm mộc, làm rèn

hay chài lưới vậy thôi. Ông không tán thành tác phong tài tử, viết phải đợi có

cảm hứng. Tại sao không làm như các nghề bình thường khác vẫn làm! Không

hứng cũng cứ viết. Còn viết hỏng, bỏ đi, lại là chuyện khác.

Mà nghề văn đâu phải là nghề khổ nhất. Nguyễn Vỹ làm thơ: “Nhà

văn Annam khổ như chó”. Nguyễn Vỹ có bằng tú tài, hắn có khổ gì lắm đâu!

Nhiều nghề khác khổ hơn chứ!.

Nhưng đã là nghề thì phải học nghề. Nhiều anh viết chưa có nghề. Phải

chuyên môn hoá, thành nghề hẳn hoi. Đừng viết nhiều thể văn khác nhau. Làm

chơi thì được, như thỉnh thoảng ông có làm thơ. Nhưng làm thật thì không nên.

Về mặt học thì Tô Hoài rất chịu khó. Cái học nhà trường của ông

không nhiều, nên ông phải gắng tự học. Ông học tiếng Pháp Nam Cao. Ông có

bà dì tên là Phượng dạy trường Tiểu học tư thục Công Thành ở dốc Tam Đa.

Nam Cao cũng dạy ở đấy. Bà Phượng (nguyên mẫu của nhân vật Oanh trong

237


Sống mòn) giới thiệu Nam Cao dạy tiếng Pháp cho Tô Hoài. Lúc ấy trò đã có

tên tuổi rồi, mà thày thì chưa.

Hồi Pháp thuộc, đọc thư viện lớn ở Tràng Thi, phải có bằng thành

chung (diplôme). Tô Hoài chỉ mới học hết cấp tiểu học. Ông đến Vũ Ngọc Phan

nhờ giới thiệu với thư viện Hà Nội để đọc sách. Vũ Ngọc Phan có một biệt thự

ở Thái Hà ấp. Phan nói cứ đến đọc sách ở thư viện riêng của ông, ông hướng

dẫn cho. Tô Hoài thành ra rất thân với gia đình Vũ Ngọc Phan, nhiều khi cùng

ăn cơm với gia đình. Nhà Vũ Ngọc Phan cũng gần nhà cụ Lê Dư -Sở Cuồng là

bố vợ của Phan. Mấy chị em Hằng Phương, Hằng Huân, Hằng Phấn... con cụ Lê

Dư đều rất đẹp. Các cô ngồi xe nhà đi học, bao nhiêu thằng bám theo. Bọn Đinh

Hùng ghen với Tô Hoài về cái số may mắn của ông. Nhưng lúc bấy giờ Tô Hoài

chỉ là một chàng trai nhà quê, mặc áo dài thâm, đi guốc, ăn thua gì! ở nhà Vũ

Ngọc Phan, Tô Hoài đọc được nhiều tiểu thuyết Pháp.

Ông cũng chịu khó đọc tác phẩm của các nhà văn khác, đọc cả sách lý

luận phê bình, sách văn học sử, đọc từ Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn

Đăng Mạnh đến Phong Lê, Trần Hữu Tá, đọc cả Văn Giá... Đọc và có nhận xét

hẳn hoi.

Đến thời kháng chiến, lên Tây Bắc, để hiểu người Hmông, ông học

tiếng H’mông. Một lần đi cùng vợ chồng A Phủ từ Phù Yên lên Điện Biên, ông

vừa đi vừa học tiếng H’mông. Ông còn đọc nhiều sách nghiên cứu về các dân

tộc Hmông, Mán, sách về tục ngữ Mường... Nguyễn Tuân cũng đi Tấy Bắc,

nhưng theo Tô Hoài, chủ yếu là đi xem vườn hoa cây cảnh, còn ông mới đi sâu

nghiên cứu các dân tộc, tuy bên cạnh đó cũng có thú giang hồ, xê dịch, thú

exotique chẳng kém gì Nguyễn Tuân.

Ông đặc biệt rất chú ý học chữ. Ông chê nhiều người viết văn bây giờ

thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Nhiều chữ họ không hiểu. Làm văn thì phải học

chữ. Có cách học và chịu khó thì lúc nào cũng học được. Ngôn ngữ Việt Nam

rất phong phú về những từ tế nhị như những từ chung quanh chuyện ăn, uống,

chết... Ông cho nên biên soạn một cuốn từ điển về từ ngữ các nghề nghiệp. Ông

thấy tiếng Việt ta có chữ “ăn nằm” rất hay, tránh nói thô. Ông phân biệt “mồm”

với “miệng”. Nói “miệng’ sang hơn nói “mồm”. Cờ nhà chùa thì phải gọi là cờ

“điều” chứ không phải là cờ đỏ, sơn đen thì phải gọi là sơn “then”, quần đen thì

phải gọi quần “thâm”... Ông khoe học được một từ nghề nghiệp mới: “ thầy

dìu”. Thầy dìu là thầy dạy khiêu vũ, dìu dắt (entrainer) người tập khiêu vũ.

Theo ông “tai vách mạch rừng” vốn là “tai vách mạch dứng”. Còn “run như cầy

sấy”, Xuân Diệu cho đúng ra phải là “run như cây sậy” . Nhưng Tô Hoài cho

thế là Tây nói chứ không phải ta nói...1

1 Có một chuyện rất vui là, vào những năm 60 của thế kỉ trước, Phạm Văn Đồng có đề xướng một cuộc vận động gọi là “Gìn

giữ sự trong sáng của tiếng Việt”. Ông triệu tập một số nhà văn, nhà ngôn ngữ đến trao đổi về vấn đề này. Tô Hoài không

được mời vì bịcoi làviết sai tiếng Việt, sai ngữ pháp, nghĩa là vi phạm vào sự trong sáng của tiếng Việt (!). Chính Tô Hoài nói cho tôi biêt chuyện này)

Tô Hoài chủ trương chỉ viết về cái gì đích thân mình có sống, có quan

sát được, viết bằng thực tế và tình cảm của mình, không thích viết những cái chỉ

nghe người khác kẻ lại. Một đầu óc rất tỉnh táo, chỉ tin ở sự thể nghiệm của bản

thân mình. Ông đi cải cách ruộng đất bốn lượt, từng làm đội phó phụ trách toà

án. Vậy mà ông kết luận trái hẳn với đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn:

“Cơ sở cách mạng trước 1945 phải là trung nông trở lên, chứ dựa vào bần cố

nông, nó đói, nó “bán” cách mạng ngay”.

Viết văn, Tô Hoài không băn khoăn về chuyện thể loại, chỉ cốt nói

được rõ ràng ý định của mình. Nhưng tôi thấy dù viết tiểu thuyết, truyện ngắn

hay ký, dù viết về đề tài gì, tác phẩm của ông cũng có tính chất hồi ký, tự truyện

– Hình như ông có một thói quen có thể gọi là tư duy – hồi cố hay cảm hứng hồi

tưởng.


Tô Hoài nói, ông tán thành quan niệm của A. Maurois rằng sự thật của

quá khứ khi hồi tưởng lại không tách biệt với cái hiện tại – quá khứ, hiện tại lẫn

vào nhau như là đồng hiện vậy. Tôi đọc bài ký Ông già ở Agra, thấy đúng như

thế. Tôi rất thích tác phẩm này của ông. (André Maurois đề tựa cuốn Đi tìm thời

gian đã mất của Marcel Proust, có câu: “Sự cặp đôi cảm giác hiện tại với kỉ

niệm sống lại đối với thời gian, cùng chính là kính hội tụ đối với không gian”).

Tô Hoài cho viết truyện thì phải lấy nhân vật làm gốc. Chữa văn là

chữa nhân vật. Thừa hay thiếu cũng là từ nhân vật. Ông tán thành kinh nghiệm

của Fadéev: “Viết một câu, rồi câu thứ hai, câu thứ ba cùng đều đều như câu

đầu tiên tức là tuột dần vào một thứ tẻ nhạt khó chịu. Phải tránh đặt câu giống

nhau, phải làm sao cho câu văn nổi bắp, nổi gân lên”. Phải viết sao cho người

ta đọc văn mình, đọc đi đọc lại, vẫn thấy hay. Có truyện đọc lần đầu thấy hay.

Đọc lại không thấy hay nữa. Văn phải đọc đi đọc lại, phải thử đi thử lại mới

đáng tin.”

Tô Hoài đi nhiều, xê dịch còn hơn cả Nguyễn Tuân. Trước cách mạng

tháng Tám, ông đã đi khắp Bắc Trung Nam. Vừa đi vừa viết. Bài gửi về cho nhà

Tân Dân, và nhận nhuận bút qua bưu điện. Ông cho biết, truyện Trăng thề viết

ở Dầu Tiếng...

Nhưng ông cho rằng, mỗi người có một quê hương. Đi khắp nơi để lại

càng hiểu sâu hơn quê hương mình. Vậy là thực tế tự nhiên và những vui buồn

của quê hương ông vẫn là nguồn chất liệu chính đã bồi đắp nên tâm hồn các

nhân vật của ông và những trang viết của ông. Ông vẫn là nhà văn của Nghĩa

Đô, của sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức - Ông là Tô Hoài.

Tô Hoài còn có một trí nhớ tuyệt vời. Ông lên Đà Lạt viết Chiều chiều,

không đem theo một tài liệu nào hết. Viết xong về nhà mới kiểm tra lại tư liệu.

Ông không thích trực tiếp nói tình cảm của mình, muốn nói tình cảm

qua những cái mình mô tả.

Có người xui ông viết tiếp Dế mèn phiêu lưu ký. Ông nói, tôi không

viết. Tôi không dại như Lưu Trọng Lư, viết Tiếng thu II, Tiếng thu III, chẳng ra

gì cả. Đúng là Tô Hoài rất tỉnh. Nhìn người khác hay nhìn mình đều rất tỉnh.

Tỉnh đối với mình, không dễ đâu!.

* *


*

Tô Hoài quê ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai. Nhưng sinh ở Nghĩa

Đô. Mãi đến năm 20 tuổi mới về quê nội. Mà cũng chỉ thỉnh thoảng thôi. Ông

thân sinh bỏ đi Sài Gòn biền biệt từ khi ông còn nhỏ. Nhà có khung cửi. Ông

cũng biết dệt. Nghĩa Đô có nghề dệt lĩnh, dệt lụa và làm giấy.

Ông lớn lên trong cảnh tàn tạ của làng quê. Nghề dệt, nghề giấy đều lụi

dần. Năm đói (1945) người chết la liệt. Nội thành được phát bông gạo. Nghĩa

Đô thuộc ngoại thành nên tuy chỉ cách có một con đường mà cả làng chết đói –

người ta chỉ phát bông gạo tới Thuỵ Khuê thôi.

Đấy, quê hương, nơi đi về của kí ức ông là như thế. Cho nên truyện

củaTô Hoài nói chung là buồn. Chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện làng xóm đều

buồn. Toàn kí ức buồn. Mà kí ức tuổi thơ bao giờ cũng sâu đậm và lâu bền nhất.

Bản thân ít được học. Lang thang lêu lổng, bắt chim, đúc dế... Lớn lên, có thời

gian làm anh bán hàng cho hiệu giầy Ba ta, mỗi tháng đâu được dăm, sáu đồng.

May mà có nghề làm văn, làm báo là cái nghề không cần vốn liếng gì, cũng

chẳng cần bằng cấp để bám vào. Nhưng cũng như Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,

Trần Huyền Trân..., Tô Hoài thuộc loại nhà văn lăn lộn với đời. Có thể nói là

“rất bụi”, khác hẳn với cánh viết văn, làm báo sang trọng như Nhất Linh, Khái

Hưng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Lương Ngọc hay có trí thức như Nguyễn Tuân,

Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam, Hoài Thanh... hoặc ăn lương viên chức, lương giáo

học như Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển... Thời trước, loại làm văn làm báo như

thế, xã hội viên chức nền nếp, sạch sẽ rất khinh bỉ, cho là loại vô học, vô nghề

nghiệp... Nhưng cuộc sống như thế lại là cái vốn liếng độc đáo của họ mà các

cây bút kia không có.

Tô Hoài là nhà văn của đời thường, người thường, chuyện thường, và

ông cũng thích sống như một người thường. Mình là gì mà cao đạo! Mà cần gì

phải cao đạo! Cho nên đời cho hưởng cái gì, hưởng cái đó, không chê - chắc

ông nghĩ thế !.

Về mặt này, ông cũng chẳng dấu tôi điều gì. Và tôi cũng tranh thủ hỏi

ông một cách thoải mái:

- Gái H’mông thế nào?

- Anh đã biết mùi đầm bao giờ chưa?

- Hồi cải cách ruộng đất, cán bộ hủ hoá thoải mái. Anh thì sao?

- Nguyễn Khải cho tôi biết, anh có chuyện với L.M. Có đúng không?

Tô Hoài trả lời cũng rất thoải mái:

- Gái H’mông nguy hiểm lắm! Nó ngủ với cán bộ, hôm sau đi khoe cả

làng, cả bản. Nhiều anh bị kỷ luật, có anh bị xử bắn vì chuyện ấy.

- Tây đầm nó quần nhau, đùa nhau rất mệt. Ta không chịu nổi. Lính

tập, bồi bếp ở bên Tây, dính với đầm, sợ lắm!

Tôi có lần sang Rumani, có một cô phục vụ đòi hỏi ghê quá. Mình phải

xin giấy chứng nhận huyết áp cao mới thoát được.

- Hồi cải cách ruộng đất ấy à: có! có!

- Chuyện ấy sao Nguyễn Khải nó biết được nhỉ? Tay N.D chồng L. M

có lần mắng vợ: “Đi mà ở với thằng Tô Hoài !”.

Tô Hoài rât thích bia rượu. Thỉnh thoảng tôi tìm đến ông, ông hay rủ

uống bia. Ông yếu bụng nên cũng hay uống rượu mạnh. Ly rượu mạnh ông chỉ

làm một hơi.

Tô Hoài nay đã cao tuổi. Sức khoẻ xem chừng ngày càng xuống. Tiểu

đường thời kì thứ hai. Huyết áp không ổn định. Lại bị gút.

Ông là một pho từ điển sống về giới nhà văn, về đời sống muôn mặt,

về kinh nghiệm viết văn. Ông làmột kho chữ nghĩa... Người như thế bây giờ là

của hiếm lắm đấy!

Một trong những may mắn của đời tôi là được tra cứu vào cuốn từ điển

Tô Hoài. Không biết đến bao giờ mới khai thác hết được. Mà ông thì tuổi đã

cao, tôi cũng tuổi đã cao.

Láng Hạ. 9. 6. 2007.




tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương