19
Người lập trình ứng dụng cài đặt những yêu cầu này trong chương trình, kiểm thử,
gỡ rối, lập tài liệu cho chương trình
Người thiết kế CSDL chịu trách nhiệm xác định dữ liệu lưu trữ trong CSDL và cấu
trúc biểu diễn và lưu trữ những dữ liệu này
Người sử dụng cuối là người khai thác các hệ CSDL
Người quản trị CSDL chịu trách nhiệm cho phép truy nhập CSDL, điều phối và
kiểm tra sử dụng CSDL, quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm khi cần thiết
Người bảo trì hệ thống là những người quản trị hệ thống chịu trách nhiệm việc
hoạt động và bảo trì môi trường (phần cứng và phần mềm) cho hệ CSDL.
1.1.4. Các ngôn ngữ hệ CSDL
Một ngôn ngữ con dữ liệu bao gồm hai phần: một ngôn ngữ định nghĩa dữ liệu
(Data Definition Language) và một ngôn ngữ thao tác dữ liệu (Data Manipulation
Language). Ngôn ngữ định nghĩa dữ liệu được dùng để xác định lược đồ cơ sở dữ liệu
chẳng hạn dùng để định nghĩa một quan hệ (một thực thể), các thuộc tính của thực thể
đó, các kiểu dữ liệu của mỗi thuộc tính. Ngôn ngữ thao tác dữ liệu được dùng để đọc và
cập nhật dữ liệu. Các ngôn ngữ này được gọi là ngôn ngữ con dữ liệu bởi vì chúng
không bao gồm các cấu trúc lập trình cần thiết cho việc tính toán như cấu trúc điều kiện
hoặc câu lệnh lặp, những cấu trúc được cung cấp bởi các ngôn ngữ lập trình bậc cao.
Hầu hết các hệ quản trị cơ sở dữ liệu đều có một môi trường cho phép nhúng các ngôn
ngữ con vào ngôn ngữ lập trình mức cao như COBOL, Pascal, C, C++, Java hoặc Visual
Basic, những loại ngôn ngữ lập trình bậc cao này được gọi là ngôn ngữ chủ. Hầu hết
các ngôn ngữ con cũng cung cấp một phiên bản tương tác hay không nhúng vào ngôn
ngữ khác mà được đưa vào trực tiếp từ một thiết bị đầu cuối.
Khi việc thiết kế cơ sở dữ liệu đã hoàn thành, cần phải chọn một hệ quản trị cơ sở
dữ liệu để cài đặt cơ sở dữ liệu. Trong các hệ quản trị cơ sở dữ liệu hiện nay thường
có các ngôn ngữ:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: