Chủ nhiệm Bộ môn Phan Nguyên Hải ĐỀ CƯƠng chi tiết bài giảNG



tải về 4.09 Mb.
trang2/44
Chuyển đổi dữ liệu26.11.2017
Kích4.09 Mb.
#34644
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   44

- Các thuộc tính được sử dụng trong các mô tả tâm lý như vậy được gọi là các khái niệm có ý định

- Nhà triết học Daniel Dennett đưa ra thuật ngữ “hệ thống có ý định” để mô tả các thực thể mà hành vi của chúng có thể dữ báo bằng phương thức của thái độ tin tưởng, mong muốn, và sự nhạy bén có lý.

- Dennett chỉ ra các cấp độ khác nhau của hệ thống có ý định: Hệ có ý định bậc một có các niềm tin và mong muốn nhưng không có niềm tin và mong muốn về các niềm tin và mong muốn. Hệ có ý định bậc hai phức tạp hơn; nó có các niềm tin và các phong muốn (và không nghi ngờ các trạng thái có ý định) về niềm tin và mong muốn (các trạng thái có ý định khác) – cả của người khác và của chính nó.

- Liệu có hợp lý và hữu ích để quy niềm tin và mong muốn cho các hệ thống tính toán?

- McCarthy lập luận rằng có các trường hợp thái độ có ý đinh thích hợp:

Để gán niềm tin, sự sẵn sàng, ý đinh, ý thức, khả năng, và mong muốn cho 1 cái máy là hợp lý khi việc gán này thể hiện thông tin về chiếc máy giống như nó thể hiện thông tin về một người. Khi việc gán này giúp chúng ta hiểu cấu trúc của chiếc máy, hành vi quá khứ và tương lai, hoặc làm thể nào để sửa chữa hay cải tiến nó. Nó có thể không bao giờ được yêu cầu thậm chí đối với con người, nhưng thể hiện hợp lý và súc tích điều thực sự được biết về trạng thái của chiếc máy trong một tình huống cụ thể có thể yêu cầu các tính chất về tinh thần hoặc các tính chất đẳng cấu đối với chúng. Lý thuyết niềm tin, tri thức và mong muốn có thể được xây dựng cho những chiếc máy với một cài đặt đơn giản hơn so với con người, và sau đó áp dụng cho con người. Việc gán các tính chất về tinh thần là dễ hiểu nhất đối với những chiếc máy có cấu trúc rõ ràng như bộ điều chỉnh nhiêt hay hệ điều hành máy tính, nhưng nó hữu ích nhất khi được áp dụng cho các thực thể mà cấu trúc không hoàn toàn rõ ràng.

- Những đối tượng nào có thể được mô tả bằng thái độ có chủ ý?

- Hoàn toàn chặt chẽ khi xem môt công tắc điện như một tác tử (rất hợp tác) với khả năng sẵn sàng truyền điện, luôn luôn truyền điện khi nó tin rằng chúng ta muốn nó truyền và ngược lại; gõ vào công tắc đơn giản là cách chúng ta thông tin mong muốn của chúng ta.

- Nhưng phần lớn những người trường thành sẽ xem nó là một mô tả vô lý! Tại sao vậy?

- Câu trả lời có vẻ như là trong khi mô tả thái độ có chủ ý là nhất quán, nó không mang lại lợi ích gì, khi chúng ta về cơ bản hiểu đầy đủ cơ chế này để có một mô tả máy móc đơn giản hơn đối với hành vi của nó.

- Một cách đơn giản, chúng ta cảng biết nhiều về một hệ thoogns, chúng ta càng ít cần dựa vào các giải thích có chủ ý và duy vật về hành vi của nó.

- Nhưng với các hệ thống phức tạp, một giải thích máy móc về một hành vi có thể không thực tế.

- Khi các hệ thống máy tính càng ngày càng phức tạp, chúng ta cần những sự trừu tượng mạng hơn để giải thích hoạt động của chúng – những giải thích mức thấp trở nên không thực tết. Thái độ có chủ ý là một ví dụ về sự trừu tượng hóa.

- Các khái niệm có ý định do đó là các công cụ trừu tượng, cho chúng ta một cách thuận lợi để mô tả, giải thích, và dự báo hành vi của các hệ thống phức tạp.

- Ghi nhớ: Phần lớn những phát triển quan trong trong tính toán dựa trên những trừu tượng hóa mới:

+ Trừu trượng hóa thủ tục

+ Các kiểu dữ liệu trừu trượng

+ Các đối tượng

+ Các tác tử được xem là các hệ thống có ý định biểu diễn một sự trừu tượng hóa ngày càng mạng mẽ.

- Các lý thuyết về tác tử bắt đầu từ quan điểm mạnh mẽ coi các tác tử như các hệ thống có ý định: một người có mô tả nhất quán đơn giản nhất yêu cầu thái độ có chủ ý.

- Thái độ có chủ ý là một công cụ trừu tượng hóa – một cách thuận tiện để nói về các hệ thống phức tạp, cho phép chúng ta dự báo và giải thích hành vi của chúng không cần hiểu mô hình này làm việc như thế nào

- Ngày nay, khoa học máy tính quan tâm tìm kiếm các mô hình trừu tượng hóa (trừu tượng hóa thủ tục, dữ liệu, đối tượng). Tại sao không dùng thái độ có chủ ý như một công cụ trong tính toán – để giải thích, hiểu và lập trình các hệ thống tính toán.

- Đây là một lập luận quan trọng dành cho các tác tử.

- Ba điểm khác dành cho ý tưởng này:

- Mô tả các tác tử: Cung cấp cho chúng ta một cách quen thuộc không đi vào chi tiết kỹ thuật để hiểu và giải thích các tác tử.

- Các biểu diễn xếp chồng:

+ cho chúng ta khả năng đặc tả các hệ thống bao gồm các biểu diễn của các hệ thống khác

+ Mọi người chấp nhận rộng rãi quan điểm các biễu diễn xếp chồng là cần thiết đối với các tử phải cộng tác với các tác tử khác.

- Các hệ thống xác định khai báo: Quản điểm này về các tác tử hình thành một kiểu lập trình xác định khai báo:

+ Trong lập trình thủ tục, chúng ta nó chính xác điều hệ thống nên làm

+ Trong lập trình khai báo, chúng ta phát biểu điều mà chúng ta muốn đạt được, cung cấp hệ thông những thông tin chung về các mối quan hệ giữa các đối tượng và để một mô hình điều khiển xây dựng sẵn (ví dụ như chứng minh thuyết dẫn dặt bởi mục tiêu) xác định điều cần làm.

+ Với các tác tử, chung ta đưa ra một mô tả trừu tượng về hệ thống và để mô hình điều khiển xác định điều cần làm, biết rằng nó sẽ hoạt động theo một lý thuyết xây dựng sẵn nào đó về tác tử (ví dụ như mô hinh cohen-levesque về ý định)

- Bên lề


+Ta thấy rằng các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tính toán có xu hướng hơn đã thông qua tập các ý tưởng tương tự

+ Trong lý thuyết các hệ phân tán, logic của tri thức được dùng để phát triển các giao thức dựa vào tri thức.

+ Lý lẽ là khi xây dựng các giao thức, môt người thường gặp các lập luận sau:

* Nếu tiến trình i biết tiến trình j đã nhận được thông điệp m1

* Thì tiến trình i cần gửi tiến trình j thông điệp m2.

+ Trong lý thuyết cơ sở dữ liệu, tri thức là cơ sở - giả thiết có sự diễn giải chính xác về các trạng thái của một tiến trình; chúng ta sẽ kiểm tra điểm này chi tiết sau.

VIII. Kiến trúc trừu tượng của các tác tử

8.1 Kiến trúc chung



- Giả sử mô trường có thể là một trong các tập hữu hạn E của các trạng thái rời rạc tức thời.

- Giả sử các tác tử có thư mục những hành động có thể dành cho chúng, giúp chuyển trạng thái của môi trường



- Một lượt chạy (Run) r của một tác tử trong một môi trường là một chuỗi các trạng thái và hành động


Каталог: files -> FileMonHoc
FileMonHoc -> NGÂn hàng câu hỏi lập trình cơ BẢn nhóm câu hỏI 2 ĐIỂM
FileMonHoc -> CHƯƠng 2 giới thiệu về LÝ thuyết số
FileMonHoc -> CÁc hệ MẬt khoá CÔng khai kháC
FileMonHoc -> BỘ MÔn duyệt chủ nhiệm Bộ môn
FileMonHoc -> Khoa công nghệ thông tin cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
FileMonHoc -> Chủ nhiệm Bộ môn Ngô Thành Long ĐỀ CƯƠng chi tiết bài giảNG
FileMonHoc -> Chủ nhiệm Bộ môn Phan Nguyên Hải ĐỀ CƯƠng chi tiết bài giảNG
FileMonHoc -> Khoa: CÔng nghệ thông tin cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
FileMonHoc -> MẬt mã khóA ĐỐi xứng lý thuyết cơ bản của Shannon
FileMonHoc -> Khoa công nghệ thông tin bài giảng LẬp trình cơ BẢn biên soạn

tải về 4.09 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   44




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương