Các bài suy niệm chúa nhậT 4 MÙa vọng b


Chú giải của Hugues Cousin



tải về 370.66 Kb.
trang12/13
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích370.66 Kb.
#37909
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

20. Chú giải của Hugues Cousin


LOAN BÁO CHO ĐỨC MARIA

Lời loan báo này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà Luca vay mượn một trình tự như thế, nhưng từ văn chương Hy Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy Lạp Platarque đã xuất bản “Những cuộc đời sóng đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu sử; trong mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy Lạp với một người Rôma để chứng minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu thì người Hy Lạp vẫn có cái gì vượt cao hơn. Thể loại văn chương mà Luca chọn ở đây là để cho ta tìm không phải những điều giống mà những điểm khác nhau, có mục đích để bày tỏ trong hai cậu bé ai vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin (xem phần sau) cho thấy khoảng cách giữa Chúa Giêsu và Gioan.


Hẳn nhiên là câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của đền thờ, nhưng khiêm tốn trong một thành xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này thì chính vị sứ giả từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ đó mà đi ra (c.38). Sự kiện mặc khải được trao cho bà mẹ tương lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu một khác biệt, tự nó không mang nhiều ý nghĩa lắm. Những mô hình của Cựu Ước thực ra cũng để cho phụ nữ xuất hiện. Có cái ý nghĩa hơn nhiều chính là sự đồng trinh của Đức Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống chung với Giuse và sắp thụ thai mà không có kết hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đã là kỳ diệu và đối với Chúa Giêsu điều đó còn kỳ diệu hơn.
Sự đồng trinh của Maria cũng lưu ý về một sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ trẻ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự với câu hỏi của vị tư tế. “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi vì tôi không có liên hệ tính dục”. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó như một dấu hiệu thiếu niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà không phê bình, và cho Đức Maria một dấu chỉ, ngược hẳn với điều mà Giacaria đã nhận được, dấu chỉ ấy không phải là một hình phạt: người bà con của cô đã có thai. Chính là vì Đức Maria đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính, vị hôn phu của bà Êlisabét biết rõ lịch sử của Abraham giống trường hợp của ông. Như thế, hai việc loan báo song song khác biệt nhau ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của vị tư tế trái ngược với sự chấp nhận thanh thản của nữ tì Chúa, người đã suy phục Lời; và chỉ sau đó Lời đã được thực hiện. Đức Maria sẽ lại được nói tới bằng danh xưng nữ tì ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở chỗ khác để chỉ những thành viên của Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)
Lời sứ thần chào Đức Maria (c.28) là một cái gì “hơn nữa” không có lời nào tương ứng khi báo tin cho ông Giacaria. “Kính chào cô! Người được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở cùng cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu Thế – nhưng cô chưa biết điều đó. Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đã được sứ thần của Chúa nói khi hiện ra với Ghêđêon (Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ người mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc mắc về ý nghĩa của lời chào. Và chỉ lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ sinh ra, Đức Maria mới biết mình là Mẹ của Chúa (xem 1,43); như vậy công thức chào lại càng có giá trị phản hồi đặc biệt đối với độc giả.
Tên của sứ thần đã cho độc giả biết ngay từ lúc đầu: Gabriel như trong cảnh trước. Việc sai sứ thần đến nhà vị hôn thê của một người thuộc dòng tộc nhà Đavít nhắc ta nhớ tới việc hoàn tất lời hứa về Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết gì về gốc gác của sứ giả – điều này lại càng nhấn mạnh đến đức tin của Ngài vào lời sứ giả.
Sứ điệp từ trời liên quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần bởi câu hỏi của Đức Maria. Phần thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên cao cả và sẽ trị vì) bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước nói về Đấng Mêsia thuộc dòng dõi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn tất hai lời tiên tri quan trọng đối với Giáo Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời thứ nhất là của Is 7,14 (c.31) như trong bản Do Thái của câu này, chính người mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu “Thiên Chúa cứu”, Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả biết nhưng lại gán cho tên ấy tước hiệu Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ hai là sấm ngôn của Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng của Người sẽ vững bền mãi mãi (2Sm 7,14.16): vì vậy con trẻ sắp sinh ra sẽ vừa là con vua Đavít vừa là con của Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai đồng trinh mang đến một sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông thuộc nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và vì thế được nắm vương quyền, nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.
Lúc ấy, Đức Maria thắc mắc về tình trạng hiện tại của mình, khi được báo tin và đặt câu hỏi về cách thức mà lời loan báo sẽ được thực hiện. Phần thứ hai của sứ điệp (c. 35-37) soi sáng trước tiên cho việc thụ thai đồng trinh, và cung cấp một lời đáp có tính cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ là con của Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, bởi vì được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa bởi vì như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ là Thánh, được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này thiết lập một khác biệt chính yếu giữa hai cậu bé được thụ thai một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền hô và Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc dòng dõi Đavít. Còn hơn nữa: trong khi Chúa Thánh Thần tác động trên Gioan ngay từ trong lòng mẹ, làm cho ông trở thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng hậu (x. 7,26), thì cũng chính Thánh Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa.
Sau đó, sứ điệp từ trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ thai Gioan giống như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac (St 8,14). Và việc sứ thần nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối liến chu kỳ của Gioan và của Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với Đức Maria. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Maria bởi vì Êlisabét vẫn còn ẩn mình (1,24)

21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt


TRUYỀN TIN CHO MARIA
CHÚ GIẢI CHI TIẾT

Bà đã đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Giavê".


"Này bà sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai...": Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản. Theo mặt chữ thì bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh" (I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ "thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho tiếng "thụ sinh" vì nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể": Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình yêu mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh dự lớn lao vô cùng.
KẾT LUẬN

Trong khi sự tiền hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến hình và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc về Người ngay từ khi người


đến trong thế gian. Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu của trình thuật truyền tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Sứ mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của Gioan trong Is 40-45.
2. Thiên Chúa đã có thể đặt Maria trước một sự việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đã thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã muốn cần đến sự tự do đồng ý của Maria trong công trình cứu chuộc: không những vì lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ý thức và tình nguyện.
3. Dacaria, khi được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính cách xác thực của sứ điệp. Còn Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ gì. Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải tìm cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chãi và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ chứng ấy.
4. Thiên sứ cho Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường lối của thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lý không miễn cho ta hành vi đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.
5. Vì lòng thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc ý muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng biến đổi cả hướng đi cuộc đời...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ vì lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.
6. Khi lần hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đã ngỏ với Maria.
7. Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Ta không rõ ý muốn ấy sẽ mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8. Thiên Chúa có thể làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh: chẳng có gì mà Ngài không làm được.


tải về 370.66 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương