à HỘi chủ nghĩa việt nam những giá trị, ĐẶc trưng phổ biến và TÍnh đẶc thù



tải về 56.27 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu29.04.2024
Kích56.27 Kb.
#57416
à HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


à HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM -
NHỮNG GIÁ TRỊ, ĐẶC TRƯNG PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
Đào Trí Úc
GS.TSKH. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin bài viết:
Từ khóa:
Nhà nước pháp quyền,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, giá trị phổ biến,
tính đặc thù.
Lịch sử bài viết:
Tóm tắt:
Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích quan niệm về giá trị, đặc trưng
phổ biến và tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền trong mối liên hệ với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 02/01/2022
: 05/01/2022
: 08/01/2022
Article Infomation:
Keywords:
The rule of law;
the Socialist Rule of Law of
Vietnam; common values;
specificity.
Article History:
Abstract:
Within the scope of this article, the author provides an analysis of the concept
of value, common characteristics and specificity of the rule of law in relation
to the Socialist Rule of Law in Vietnam.
Received
Edited
Approved
: 02 Jan. 2022
: 05 Jan. 2022
: 08 Jan. 2022
14
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
người. Nhà nước pháp quyền cũng đồng thời
đòi hỏi bảo đảm thực thi các nguyên tắc ưu tiên
về quyền, bình đẳng và trách nhiệm trước pháp
luật, các nguyên tắc về phân quyền, về sự tham
gia của người dân và sự minh bạch trong hoạch
định chính sách và trong các thủ tục pháp lý”
1
.
Sự phổ biến của Nhà nước pháp quyền thể
hiện rõ nhất trong Hiến pháp ở các quốc gia
trên thế giới. Theo thống kê của
Oceana’s
Constitutions of the Countries of the World
Online, trong số 125 Hiến pháp của các nước
thì 95 Hiến pháp sử dụng khái niệm Nhà nước
pháp quyền
2
.
Trong từng mô hình Nhà nước pháp quyền
đều có các yếu tố cơ bản của chế độ Nhà nước
pháp quyền và những yếu tố đặc thù. Nhiều
nhà nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng, khi
thiết kế mô hình và bắt tay vào xây dựng chế
độ pháp quyền, các quốc gia đều muốn áp dụng
các điểm chung được coi là nhất thiết phải có
đó sao cho phù hợp với các giá trị ở nước mình,
xét đến lịch sử, văn hoá và bối cảnh chính trị
cụ thể của từng nước
3
. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng, những “biến thể” đó chỉ có thể liên
quan đến những yếu tố (hay còn gọi là những
đặc trưng) không cơ bản. Như vậy, yếu tố cơ
bản của một Nhà nước pháp quyền là yếu tố
bất biến và có ý nghĩa phổ biến! Sẽ không có
và không thể xác lập và khẳng định được chế
độ pháp quyền nếu ở một quốc gia, các yếu
tố phổ biến và yếu tố đặc thù loại trừ, vô hiệu
lẫn nhau, đối nghịch với nhau với tính cách là
những giá trị xã hội.
Như vậy, khi nói đến tính phổ biến của Nhà
nước pháp quyền cần tìm hiểu các tư tưởng, giá
trị phổ biến (hoặc phổ quát) và các đặc trưng
(hoặc nguyên tắc) phổ biến.
1
The Rule of Law and Transitional Justice in Conflict and Post-conflict Societies UN Security Counsil
S/2004/ 616, 23 August 2004, par III 6.
2
http://www.oceanalaw.com/
default.asp.
3
Jeffrey D.Sachs (editor) and Pistor, Katharina,
The Rule of Law and Economic Reform in Russia,
The John
M.Olin Critical Issues Series, Westview Press, 1987, 25; James V.Feinerman,
The Rule of Law with Chinese
Socialist Characteristics, Current History
(September 1997): 278-281.
2. Nhà nước pháp quyền với tính cách là
những tư tưởng và giá trị phổ biến
Nhà nước pháp quyền được hình thành
trước hết với tính cách là một triết lý, một lý
thuyết về việc xác lập đúng đắn mối quan hệ
giữa quyền lực (nhà nước) với con người, với
xã hội thông qua sự đánh giá vai trò và tính
chất của pháp luật. Có thể tóm lược nội hàm
của triết lý đó như sau:
2.1. Tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật
trong tương quan với quyền lực của Nhà
nước (Nhà nước phải đặt mình dưới pháp
luật, chịu sự ràng buộc của pháp luật)
Trong lịch sử loài người từ phương Đông
cho đến phương Tây pháp luật đã luôn luôn
tồn tại cùng với Nhà nước. Tư tưởng coi trọng
pháp luật đã từng tồn tại, thắng thế tại Trung
Hoa cổ đại thời Xuân Thu và thời Chiến quốc
(Thế kỷ thứ VI – thế kỷ thứ III TCN), trở thành
tư tưởng chủ đạo của nhà Tần dưới thời Hoàng
đế Tần Thủy Hoàng (259 – 210 TCN). Ở Châu
Âu, Luật La mã đã ra đời và phát triển trong
một môi trường văn hóa của các Đế chế La Mã
(năm 27 TCN – năm 286) và Đế chế Byzantine
(395-1453) với những chế định pháp luật và
hệ thống tố tụng phát triển. Đến thời cận đại,
nước Pháp rồi đến nước Đức đã cho nhân loại
những sản phẩm văn hóa pháp luật tuyệt vời
thời Hoàng đế Napoleon (1769-1821) với các
đạo luật nổi tiếng như các Bộ luật nội dung và
tố tụng những năm 1804 – 1811 và Bộ luật Dân
sự Đức năm 1896 – những đạo luật có tầm ảnh
hưởng to lớn đến toàn bộ sự phát triển về sau
này đến nền pháp luật và văn hóa pháp lý của
châu Âu và thế giới. Ở Việt Nam, luật thành
văn đã ra đời từ rất sớm trong thời kỳ Trung đại
như bộ
Hình thư
năm 1042 thời vua Lý Thái
Tông (1000 – 1054), bộ
Quốc triều thông chế
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
15
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thời Vua Trần Thái Tông (1225 – 1258), đặc
biệt là
Quốc triều hình luật,
còn được gọi là
Bộ luật Hồng Đức
được ban hành năm 1483
dưới triều Vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497),
một Bộ luật thể hiện thành quả lập pháp vĩ đại
của nhiều triều vua Hậu Lê trên cơ sở tư tưởng
chính trị - đạo đức Nho giáo, tư tưởng chính
trị - pháp lý - đạo đức nhân nghĩa của dân tộc
Việt, văn hóa truyền thống dân tộc với nhiều
nội dung tiến bộ với kỹ thuật lập pháp khá phát
triển
4
. Đến thời kỳ thuộc địa Pháp, trong những
năm 20-30 của thế kỷ XX ở Việt Nam cũng
đã có các đạo luật như bộ
Dân luật giản yếu
Nam kỳ
năm 1883,
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ
năm
1931,
Bộ luật Dân sự Trung kỳ
năm 1936 ở
những mức độ nhất định đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển các quan hệ pháp lý và tiệm cận
với các giá trị pháp lý phương Tây đương thời.
Mặc dù vậy, Luật La Mã, các đạo luật thời
Trung đại – cận đại này ở châu Âu và ở Việt
Nam chưa hề đặt ra những hạn chế pháp lý
đối với giai cấp cầm quyền – các vương triều
phong kiến, mặc dù có thể thấy, ở đó có những
đảm bảo cho sự bình đẳng trước pháp luật, có
những quy định bảo vệ quyền sở hữu tài sản
cá nhân vốn đã từng được thừa nhận từ thời
Luật La Mã!
Đặt Nhà nước dưới pháp luật,
Nhà nước phải chịu sự giới hạn và ràng buộc
bởi pháp luật là yếu tố cốt lõi của một tư tưởng
mới – tư tưởng pháp quyền.
Cùng với việc khẳng định: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân kể từ năm 2001, sau lần sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, ở Việt Nam đã có bước chuyển rõ
ràng về bản chất của nguyên tắc thượng tôn
pháp luật. Điều đó có thể thấy rõ nhất trong các
quy định của Hiến pháp trước đây về nguyên
tắc pháp chế XHCN (Điều 12 Hiến pháp năm
1992) đối với bước chuyển sang nguyên tắc
4
Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam – Nxb. Đại. học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2017,
tr.147.
pháp quyền thể hiện ở nội dung Điều 4 Hiến
pháp năm 2013 và quy định tại Điều 14 về
các quyền con người, quyền công dân được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Tính
thượng tôn pháp luật và sự ràng buộc của nó
đối với Nhà nước, các cơ quan của Nhà nước
còn được thể hiện một cách nhất quán thông
qua nhiều nguyên tắc mới của pháp luật như
nguyên tức suy đoán vô tội; theo đó, người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố xét xử, thi hành án trái pháp
luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi
phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật
(Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Giải mã giá trị
của yếu tố thủ tục chặt chẽ đối với việc bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, càng ngày
pháp luật tố tụng của nước ta càng được hoàn
thiện. Chẳng hạn, đó là các quy định về yêu cầu
bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng trong Bộ luật
Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 (Điều 7 và
các điều 86, 245, 267, 280, v.v...). Chẳng hạn,
Điều 7 của Bộ luật TTHS năm 2015 yêu cầu:
“không được giải quyết nguồn tin về tội phạm,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
ngoài những
căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định
”. Khẳng định tính phải chịu ràng buộc
của pháp luật đối với cơ quan công quyền cũng
chính là cơ sở cho việc ban hành và thực hiện
trên thực tế Luật Tố tụng hành chính và Luật
Trách nhiệm bồi thường nhà nước. Thượng
tôn pháp luật, không có vùng cấm, không ai
được đứng trên pháp luật là quan điểm chủ đạo
của toàn bộ công cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực hiện nay.
16
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2.2. Tư tưởng về chủ quyền nhân dân với
tính cách là nguồn gốc tính chính đáng, tính
hợp pháp của Nhà nước
Trái với quan niệm phong kiến coi nguồn
gốc của quyền lực nhà nước là chúa Trời hoặc
thần thánh hóa quyền cai trị của các thiên tử
“thay Trời hành đạo”, các nhà tư tưởng của
cách mạng tư sản, dựa trên thực tế các sự kiện
cách mạng chống phong kiến diễn ra trong lúc
đương thời, các cuộc nổi dậy của nhân dân dẫn
đến sự ra đời của các chính phủ, đã đi đến quan
điểm cho rằng,
Nhà nước và quyền lực của nó
có được là dựa trên sự ưng thuận và sự đồng
thuận của nhân dân.
Người đầu tiên đưa ra ý
kiến này là John Locke – nhà tư tưởng người
Anh (1632-1704). Trong trước tác nổi tiếng
“Khảo luận thứ hai về Chính phủ” (
Second
Tract of Government
) ông đã khẳng định:
“Nhà nước được hình thành dựa trên sự đồng
thuận của người dân. Những hoạt động do Nhà
nước tiến hành nhưng không có sự đồng ý của
dân chúng sẽ bị coi là bất hợp pháp, là hành vi
không có thẩm quyền”
5
. Tư tưởng khởi đầu này
về sau đã được phát triển bởi các tư tưởng gia
nổi tiếng là J.J. Rouseau và Ch. Montesquieu.
Montesquieu đã gắn Hiến pháp vào tư tưởng
chủ quyền; theo đó, Hiến pháp là sự thể hiện ý
chí gốc rễ của nhân dân – những người chịu sự
quản lý của Nhà nước.
Ở Việt Nam, Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp
năm 1946 đã khẳng định tư tưởng đó một cách
rõ ràng nhất: “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ
và sáng suốt của nhân dân” (
Lời nói đầu
), “Tất
cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể
nhân dân Việt Nam” (Điều thứ 1). Một số học
giả cho rằng, bằng việc đó, bản Hiến pháp này
đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng chủ
5
Foreword and Study guide to John Locke’s Two Treaties on Government: A Translation into Modern
English. ISR Publications, 2013, Page ii.
6
Stein Tonnesson,
Ho Chi Minh’s first Constitution (1946),
paper to be presented to the International
Conference on Vietnamese Studies and the Enhancement of International Cooperation, Ha noi, July 1998,
p.5.
quyền nhân dân của J.J. Rouseau
6
. Có thể ghi
nhận sự đúng đắn của ý kiến ấy, bởi tư tưởng
chủ quyền nhân dân của Rouseau đã từng là
ngọn cờ và là cảm hứng của cách mạng Pháp
năm 1789 – 1799 và do đó, không thể không
được các nhà sáng lập chế độ mới ở Việt Nam
tiếp nhận nó như một giá trị phổ quát, khẳng
định tính chính danh của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa và chủ quyền thực tế của
nhân dân Việt Nam, thể hiện kịp thời khát vọng
chân chính của con người, điều mà tư tưởng
của J.J. Rouseau đã thể hiện. Tư tưởng về chính
quyền thuộc về nhân dân là tư tưởng xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam và của tổ chức
hoạt động của cả hệ thống chính trị và Nhà
nước. Điều đó được thể hiện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong Cương lĩnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam. Tư tưởng đó đã chỉ đạo nội dung chủ
trương, đường lối của quá trình hoàn thiện dân
chủ XHCN với các hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện, dân chủ và quyền tự quản của
nhân dân ở cơ sở.
2.3. Tư tưởng đề cao các giá trị công bằng,
công lý, quyền con người
Yếu tố có tính phổ biến của Nhà nước pháp
quyền chính là yếu tố coi công bằng, công lý,
quyền con người là hạt nhân có tính quyết định
của pháp luật và của toàn bộ hoạt động quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
Chúng ta thấy rằng, trong các ngôn ngữ phổ
biến trên thế giới (Anh, Pháp, Đức, Nga, Tây
Ban Nha v.v...), khái niệm pháp quyền tuy mới
được đưa vào sử dụng không lâu (so với nội
hàm tư tưởng của nó, như đã nêu ở trên), nhưng
từ những nỗ lực tu từ bao gồm Nhà nước là chủ
ngữ, pháp luật là tính ngữ, để chỉ Nhà nước
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
19
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đã được xác định là những giá trị có mối liên
hệ khăng khít với nhau, không thể chia tách và
được coi là những giá trị cốt lõi mang tính toàn
cầu. Đồng thời, Liên hợp quốc cũng đã coi đó
là những mục tiêu hành động của mình
8
. Nhắc
lại lời trích dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
hai nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập
Hoa Kỳ (năm 1776) và Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền (năm 1789) của Pháp
trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, nhà
sử học Dương Trung Quốc khẳng định: “Việc
trích dẫn ấy mang thông điệp của dân tộc Việt
Nam tự tin hội nhập với thế giới cùng những
giá trị phổ quát của nhân loại trên tiến trình tiến
hóa về mặt chính trị”
9
. Tư tưởng về dân chủ,
sự ràng buộc của quyền lực nhà nước bởi Hiến
pháp và pháp luật để qua đó kiểm soát quyền
lực, sự bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền,
tôn trọng và bảo đảm quyền con người “là
những định hướng và tiền đề tư tưởng của chủ
nghĩa lập hiến mang tính phổ biến mà tư tưởng
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, được kiểm nghiệm
trong thực tiễn lịch sử Việt Nam. Nội hàm của
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, chủ quyền
của Nhân dân và về Hiến pháp hoàn toàn nằm
trong dòng chảy tư tưởng tiến bộ và nhân đạo
của thời đại”
10
.
3. Nhà nước pháp quyền với tính cách là
những đặc trưng (nguyên tắc) phổ biến
Các đặc trưng phổ biến, hay là những
nguyên tắc phổ biến của Nhà nước pháp quyền
được hiểu là những đòi hỏi, những điều kiện
8
Nghị quyết về sự ủng hộ của hệ thống Liên hợp quốc với những nỗ lực của các chính phủ trong việc thúc
đẩy và củng cố các nền dân chủ mới và nền dân chủ vừa được khôi phục (Nghị quyết A/RES/62/7 ngày
13/12/2007: http://www..ipu..org/idd-e/a_62_296.pdf) và Nghị quyết về thúc đẩy và củng cố dân chủ (Nghị
quyết A/RES/55/96 ngày 28/2/2001: http://www.demcoaltion.org/pdf) un_resolution promotindem.pdf của
Đại Hội đồng Liên hợp quốc (LHQ).
9
Dương Trung Quốc,
Hiến pháp năm 1946 – 70 năm nhìn lại;
trong cuốn: Hiến pháp năm 1946 – những giá
trị lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 18.
10
GS.TSKH. Đào Trí Úc,
Dân chủ trong quy trình xây dựng Hiến pháp năm 1946 và một số đề xuất, kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng Hiến pháp,
Hội thảo Khoa học “70 năm Hiến pháp Việt Nam”,
Hà Nội, 5/11/2016, tr.6-7.
11
Xem A.Tocqueville: Democracy in America; N.Y. 1845, P.107.
cần và đủ nhằm tạo ra khả năng biến những ý
tưởng, tư tưởng, giá trị phổ biến, được thừa
nhận chung của Nhà nước pháp quyền vào
thực tiễn tổ chức và hoạt động của Nhà nước
và xã hội. Nói “cần và đủ”, bởi các yêu cầu,
nguyên tắc, đặc trưng đó phải hình thành và
vận hành đầy đủ, đồng bộ và đương nhiên,
nếu thiếu đi một trong số đó sẽ chưa có Nhà
nước pháp quyền đầy đủ. Cũng có thể hình
dung một cách tương tự như khi chúng ta nói
về kinh tế thị trường. Ở đó cũng có các giá trị
chung, phổ biến là kinh tế tự do – tự do trao
đổi giữa người bán và người mua trên cơ sở
quy luật cung và cầu; ở đó có các yêu cầu,
điều kiện cần và đủ là: tài sản thuộc sở hữu tư,
tự do kinh doanh; cạnh tranh; tự do thỏa thuận
giá cả trên cơ sở cung và cầu; vai trò có mức
độ của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế.
Trong các nghiên cứu, việc phân loại các đặc
trưng phổ biến này rất đa dạng; tùy thuộc vào
cách tổng hợp hay chia tách các yếu tố thuộc
nội hàm của các đặc trưng đó. Tuy nhiên, có
thể thấy sự thống nhất cao đối với các đặc
trưng sau đây:
3.1. Hiến pháp và thượng tôn Hiến pháp
Sự hiện diện của Hiến pháp được coi là điều
kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ
và Nhà nước pháp quyền, bởi vì Hiến pháp
được coi là “sự đồng thuận của tất cả các thành
viên xã hội thể hiện ý chí của nhân dân, là cơ
sở bảo đảm tính hợp pháp và sự chính đáng
của Nhà nước.”
11
Các học thuyết của các nhà
20
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tư tưởng vĩ đại trong lịch sử từ J.Locke
12
đến
J.J.Rousseau
13
, C.Montesquieu
14
đều đã khẳng
định rằng, Nhà nước là hiện thân và là sản
phẩm của sự đồng thuận của nhân dân. Do đó,
những hoạt động do Nhà nước tiến hành nếu
không có sự ưng thuận của nhân dân sẽ bị coi
là không hợp pháp.
Sản phẩm kiệt xuất của chủ nghĩa lập hiến
Việt Nam hiện đại chính là Hiến pháp năm
1946. Sự ra đời của bản Hiến pháp đó đã thể
hiện quyết tâm cao độ của Hồ Chí Minh và
các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, đưa
những tư tưởng tiến bộ của thời đại vào đời
sống hiện thực Việt Nam, dù lúc đó đất nước
còn lạc hậu, mang trên mình nó những di sản
nặng nề của chủ nghĩa thực dân và đời sống
vật chất thấp kém, nhằm ghi nhận ngay những
thành quả của nhân quyền và dân quyền vừa
mới giành được. Tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vào ngày 3/9/1945, tức là ngay sau
ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói với các thành viên Chính
phủ như sau: “Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế nên
nước ta không có Hiến pháp. Chúng ta phải
có một Hiến pháp dân chủ”. Chủ tịch còn nói
thêm: “Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế
độ phổ thông đầu phiếu”
15
. Có thể thấy rõ là,
bằng việc quan tâm nỗ lực xây dựng và ban
hành Hiến pháp, tổ chức Tổng tuyển cử, tư
tưởng lập hiến Việt Nam ở thời kỳ này đã kết
nối dân chủ, quyền con người và Hiến pháp.
12
J.Locke: Khái luận thứ hai về chính quyền, Nxb. Tri thức 2007.
13
J.J.Rousseau: Bàn về khế ước xã hội; NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
14
C.Montesquieu: Bàn về tinh thần của pháp luật, NXB Lý luận chính trị, 2006.
15
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.7.
16
Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 366.
17
Ibrahim F.I. Shihata, “Vai trò của cơ quan tư pháp trong ngăn chặn và kiểm soát nạn tham nhũng” (bài trình
bày tại Hội thảo của Ngân hàng Thế giới với chủ đề “Vấn đề tham nhũng: Ngăn chặn và kiểm soát bằng bộ
máy tư pháp”, được tổ chức tại Roma ý, ngày 1/4/1998).
Ở đó, dân chủ là gốc, Hiến pháp là tiền đề,
việc bảo đảm quyền con người là nền tảng,
mang tính xung lực và là mục tiêu của nền
dân chủ đó. Sơ đồ nền chính trị đầu tiên và
xuất phát điểm của Việt Nam là nền chính trị
dựa trên Hiến pháp. Sơ đồ đó đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khái quát như sau: “Chế
độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã bảo
đảm độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng
rãi của nhân dân. Quyền bầu cử và ứng cử,
quyền tham gia công việc nhà nước được bảo
đảm; quyền tự do dân chủ được thực hiện –
đó là một chế độ dân chủ mới”
16
.
3.2. Tính minh bạch của pháp luật và của
việc thực hiện pháp luật
Yêu cầu về tính minh bạch có hai nội dung:
Thứ nhất,
pháp luật phải dễ hiểu và được
công bố rộng rãi để mọi người được cảnh báo
trước về những hành động có thể phải chịu
chế tài của Nhà nước, hoặc có thể thực hiện
các quyền của mình theo các cách thức thích
hợp và để cho người khác có thể tôn trọng các
quyền của họ sau khi tìm hiểu những quy định
có liên quan.
Yêu cầu về tính minh bạch đòi hỏi trong
mọi hoạt động của mình Nhà nước phải tuân
thủ pháp luật mà trước đó đã được thông qua
và công bố. Những quy định pháp luật phải cho
phép dự báo về cách thức mà Nhà nước sẽ sử
dụng để thực thi quyền cưỡng chế của mình
trong những hoàn cảnh nhất định. Vì vậy, Ngân
hàng Thế giới đã định nghĩa Nhà nước pháp
quyền là “một tập hợp những quy định mà mọi
người đều có thể lường trước được”
17
.
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
21
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Những ưu điểm của yêu cầu về minh bạch
bao gồm: tính có thể tiên liệu trước, độ tin cậy
và cảm giác chung rằng việc áp dụng pháp luật
đối với hành vi của một người sẽ không bị coi
là độc đoán hay thất thường. Nếu anh biết, hiểu
và tuân thủ pháp luật thì anh sẽ không có lý do
gì để lo ngại rằng, Nhà nước hoặc những người
khác sẽ tìm cách can thiệp hay hạn chế hành vi
của anh. Nếu anh biết nhưng cố ý không tuân
thủ pháp luật thì vẫn được cảnh báo trước rằng
nếu bị phát hiện, anh sẽ chịu những hậu quả
nhất định.
Nội dung thứ hai
của yêu cầu minh bạch
liên quan đến vấn đề thủ tục. Quy trình làm luật
cũng phải được công bố công khai. Nếu luật
pháp được công bố chỉ để các quan chức nhà
nước tuân thủ thì rất có thể sẽ đi đến chỗ coi
nhẹ tính hợp lý của và sự cần thiết ban hành văn
bản. Ngay cả khi đã rõ về sự cần thiết ban hành
một đạo luật, nếu không công khai hoá và dân
chủ hóa quy trình ban hành luật và không tạo
điều kiện để những người có thể bị ảnh hưởng
bởi việc áp dụng luật tham gia ý kiến về dự
luật thì sự ủng hộ của dân chúng dành cho văn
bản luật đó cũng sẽ bị giảm sút. Mặc dù, việc
cưỡng chế là đủ để buộc người khác phải tuân
thủ với những đạo luật mang tính mệnh lệnh
đó, nhưng sự đồng thuận từ phía những người
dân đã không thể đạt được theo cách này. Nói
cách khác, đó chỉ đơn thuần là sự phục tùng
chứ không phải là sự đồng thuận.
3.3. Pháp luật phải dễ tiếp cận và được
thực hiện kịp thời
Tiếp cận pháp luật là một trong những
nguyên tắc khó đáp ứng nhất trên con đường
xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Tiếp cận
pháp luật đòi hỏi rằng pháp luật được ban hành
phải “có thể hiểu được”. Rõ ràng là, một số
luật đã không đáp ứng yêu cầu này, song đây
là một tiêu chuẩn mà các cơ quan lập pháp và
hành pháp có thể làm được. Điều quan trọng là
tiếp cận pháp luật cũng có nghĩa là cơ hội thực
sự để tham gia vào quá trình làm luật của mọi
người cho dù đó là quyền kinh tế hay quyền
nhân thân.
Khó khăn gặp phải trong việc tiếp cận pháp
luật chính là ở chỗ nguyên tắc này đòi hỏi phải
bảo đảm để các cá nhân có được những nguồn
lực tài chính để có thể qua được những thủ tục
pháp lý phức tạp.
Cần có những nguồn lực để đảm bảo việc
tiếp cận pháp luật; bởi vì, việc tiếp cận hệ thống
pháp luật thường đòi hỏi thời gian và được đào
tạo về pháp luật ở trình độ nhất định cũng như
hiểu biết sâu sắc về pháp luật. Không phải ai
cũng có được những khả năng này và cũng như
có khả năng về tài chính để thuê một luật sư
hay người đại diện trước pháp luật để thực hiện
chức năng này. Do đó, trách nhiệm thuộc về
chính quyền và các tổ chức như luật sư, tư vấn
pháp luật trong việc cung cấp những kiến thức
chuyên môn, thời gian và trí tuệ để giúp cho
mọi người dân có quyền kỳ vọng vào khả năng
tiếp cận công lý, cụ thể là các văn bản pháp luật
và những hoạt động pháp lý cụ thể.
3.4. Phân quyền, phân công, phối hợp
quyền lực nhà nước
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước thể
hiện trước hết ở chỗ, trong một quốc gia không
thể có hai thứ quyền lực nhà nước trở lên khác
nhau về bản chất, định hướng, mục tiêu và
những công cụ, phương tiện thực thi quyền lực.
Điều này không loại trừ cả ở những quốc gia
được tổ chức dưới hỡnh thức Nhà nước liên
bang vì ở đó, quyền lực nhà nước ở các bang
đồng kiểu với quyền lực của liên bang, phục
tùng Nhà nước liên bang và tạo thành một thực
thể quyền lực.
Sự khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân là quan điểm thống nhất và nhất quán
được biểu hiện thông qua các Hiến pháp của
hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện đại. Có
thể xác định những đặc trưng sau đây về tính
thống nhất của quyền lực nhà nước.
22
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
a) Đó là sự thống nhất về bản chất xã hội.
Quyền lực nhà nước là sự thể hiện sự thống
nhất ý chí và lợi ích của các giai tầng xã hội
và được biểu thị dưới các khái niệm, ý tưởng
về “quyền lực của nhân dân”, “quyền lực của
nhân dân lao động”, “quyền lực của các lực
lượng yêu nước” và thực chất là sự phối hợp
lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau
trong xã hội vì những mục tiêu cơ bản nhất,
chủ đạo nhất.
b) Đó là sự thống nhất các mục tiêu và
khuynh hướng có tính nguyên tắc trong tổ chức
và hoạt động của quyền lực nhà nước, của các
cơ quan quyền lực nhà nước, xuất phát từ nhu
cầu phối hợp trong thực thi quyền lực.
c) Đó là sự thống nhất về mặt tổ chức và
pháp lý. Các cơ quan thực hiện quyền lực nhà
nước đều được tổ chức trên một nền tảng pháp
lý thống nhất: một Hiến pháp, một hệ thống
pháp luật, được đặt trong một quỹ đạo chung là
lợi ích quốc gia và dân tộc.
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước được
bảo đảm bằng một Hiến pháp và một hệ thống
pháp luật: tất cả các cơ quan, từ lập pháp, hành
pháp đến tư pháp đều được tổ chức và thực hiện
các hoạt động trên một cơ sở pháp lý chung của
quốc gia.
Thống nhất quyền lực với tính cách là sự
thống nhất các mục tiêu và định hướng có tinh
nguyên tắc trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thể có giá trị cao nhằm mục đích tập
trung cao độ các nỗ lực của bộ máy nhà nước
trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp của
một đất nước. Kinh nghiệm khắc phục khủng
hoảng kinh tế của các chính phủ vừa qua, cũng
như trong các cuộc khủng hoảng chu kỳ trước
đây, là bằng chứng về điều đó. Bên cạnh đó, sự
thống nhất quyền lực ở nghĩa tập trung toàn bộ
quyền lực vào một cơ quan lại không phải là
một thực tiễn tốt, vì đó là mầm mống của một
thứ quyền lực thiếu kiểm soát.
Đó là lý do cho việc ra đời học thuyết về
phần quyền trong cơ chế quyền lực nhà nước.
Mục đích cơ bản nhất của việc phân quyền là
để phòng ngừa sự lạm quyền bởi một nhóm
hay những cá nhân và duy trì tính toàn vẹn của
quyền lực.
Như vậy, cả lý thuyết và cả trong thực tiễn,
sự thống nhất của quyền lực về mặt bản chất,
về mặt xã hội và tổ chức-pháp lý không loại
trừ mà ngược lại, đòi hỏi có sự phân quyền.
Trong trường hợp này, cơ chế phân quyền được
hiểu như là khía cạnh tổ chức - pháp lý của
quyền lực nhà nước mà không mang tính bản
chất. Tính thống nhất và sự phân chia quyền
lực là hai phương diện của cùng một vấn đề.
Chính vì vậy, ngay trong Hiến pháp Hoa Kỳ,
một quốc gia được coi là đạt tới sự phân quyền
đầy đủ nhất, cũng đã ghi nhận và khẳng định
cả hai phương diện đó. Hiến pháp năm 1946 đã
phác hoạ một cơ chế độc đáo trong mối quan
hệ giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm tính độc
lập và sự chủ động của mỗi thiết chế quyền
lực. Có thể thấy điều đó qua việc Hiến pháp đã
xác định Thủ tướng – người đứng đầu Nội các
“phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị
của Nội các”, đồng thời Nghị viện có quyền
biểu quyết về tín nhiệm Nội các, nhưng Nghị
viện chỉ có thể làm điều đó khi Thủ tướng hoặc
¼ tổng số nghị viên nêu vấn đề ấy. Trường hợp
Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các,
Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề ra Nghị
viện thảo luận lại và chỉ sau hai lần thảo luận
ấy nếu Nghị viện vẫn giữ nguyên quyết định
thì Nội các mất tín nhiệm phải từ chức. Việc
bắt và truy tố nhân viên Nội các về tội thường
phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ.
Tính độc lập và chủ động của Chính phủ theo
Hiến pháp năm 1946 cũng thể hiện ở quyền
của Chính phủ đề nghị các dự án luật ra trước
Nghị viện cũng như quyền tổ chức thi hành các
đạo luật mà không phải là chính phủ chỉ là “cơ
quan chấp hành của Quốc hội như quy định ở
các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và kể
cả Hiến pháp năm 2013 hiện nay.
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
23
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
3.5. Sự độc lập của Tòa án
Trong cơ chế phân công và phối hợp quyền
lực, vị trí của quyền tư pháp, cụ thể là Tòa án là
một vị trí đặc biệt. Sự độc lập của Tòa án đã trở
thành một trong những yếu tố quan trọng của
chế độ pháp quyền.
Triết lý của nguyên tắc phân quyền là không
phải phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các
nhánh quyền lực như nhiều người vẫn quan
niệm, mặc dù thực tiễn chính trị của các quốc
gia luôn luôn diễn ra theo logic của các lợi
ích giai cấp và mục đích chính trị của các lực
lượng xã hội tương ứng, dưới vỏ bọc của sự
phân quyền. Tuy nhiên, mọi thứ quyền lực đều
có nhu cầu bảo đảm tính thống nhất theo những
định hướng lợi ích chính trị của các giai cấp
giữ vị trí nổi trội trong xã hội với lợi ích quốc
gia, dân tộc, cho nên giữa các nhánh quyền lực
thường có xu hướng liên kết với nhau, thỏa
hiệp và phối hợp để chia sẻ quyền lực. Trong
những trường hợp đó, thông thường, dễ có sự
phối hợp hành động và sự kết hợp giữa cơ quan
lập pháp và cơ quan hành pháp mà không gây
phương hại đến nền dân chủ hoặc các nguyên
tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Quy

n
tư ph
á
p ph

i đ

c l

p - đi

u ki

n đ

th

c hi

n
m

t ch

c năng h
ế
t s

c quan tr

ng c

a quy

n
l

c nh
à


c l
à
á
p d

ng ph
á
p lu

t đ
ú
ng đ

n v

i
m

c đ
í
ch khôi ph

c l

i nh

ng quy

n v
à
l

i
í
ch
đ
ã
b

xâm h

i, b

o đ

m s

công b

ng trong c
á
c
tranh ch

p ph
á
p l
ý
.
4. Về tính đặc thủ của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Như đã lập luận ở phần trên, yếu tố cơ bản
của một Nhà nước pháp quyền là yếu tố bất
biến và có ý nghĩa phổ biến! Sẽ không có và
không thể xác lập và khẳng định được chế
độ pháp quyền nếu ở một quốc gia, các yếu
18
Kelsen Hans,
Pure Theory of Law,
translated by Knight Barkeley, CA: University of California Press,
1960, p.348-355.
19
Ronald Moore,
Legal Norms and Legal Science: a Critical Study of Hans Kelsen’s Pure Theory of Law,
Honolulu, 1978, p.215.
20
George P.Fletcher,
Basic Concept of legal Thought,
Oxford University Press, 1996, p.13; Michael
Freedman,
Human Rights, Democracy and Asian Values,
The Pacific Review, Vol.9, No.3, 1996, p.355.
tố phổ biến và yếu tố đặc thù loại trừ, vô hiệu
lẫn nhau, đối nghịch với nhau với tính cách là
những giá trị xã hội.
Mối liên hệ giữa tính phổ biến và tính đặc
thù của Nhà nước pháp quyền là mối liên hệ
giữa cái chung và cái riêng, cái đặc thù.
Theo
đó, cái chung bao giờ cũng tồn tại trong những
cái riêng, và cái riêng, cái đặc thù thì luôn luôn
cụ thể và đa dạng hơn nhiều so với cái chung -
ở đây là những giá trị cốt lõi, những nguyên tắc
và đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền.
Ngay từ đầu, Nhà nước pháp quyền đã cho
chúng ta hai phiên bản gắn liền với đặc thù địa
chính trị, văn hóa, tư tưởng. Nói đúng hơn, đó
là hai kiểu quan niệm về Nhà nước pháp quyền
của phương Tây và của phương Đông. Dưới
ảnh hưởng của Luật La Mã, về sau này là ảnh
hưởng của tư tưởng pháp luật thực chứng của
Hans Kelsen (1881-1973) coi bất kỳ một nhà
nước có pháp luật nào cũng đều là Nhà nước
pháp quyền nếu pháp luật được quy định bởi
Nhà nước và Nhà nước được đảm bảo tồn tại
theo một trật tự pháp luật nhất định
18
. Quan
điểm này không chú ý đến nội dung thực chất
của pháp luật, phủ nhận mối quan hệ giữa pháp
luật với văn hoá, với đạo đức
19
. Xa hơn Kelsen
một chút và gần hơn với học thuyết pháp luật
tự nhiên, quan niệm ở Hoa Kỳ về “thủ tục pháp
lý chặt chẽ cũng đề cao Nhà nước pháp quyền
theo hướng coi trọng thủ tục chặt chẽ, có thể
lường trước được, mặc dù quan niệm
Rule of
Law
của Hoa Kỳ là thiên về pháp luật tự nhiên,
khi pháp luật được hiểu là sự công bằng, là giá
trị quyền con người. Trong khi đó, quan niệm
khác gắn Nhà nước không chỉ với pháp luật
mà cả với văn hoá và đạo đức xã hội. Đó
là mô
hình Nhà nước pháp quyền khoan dung, mềm
dẻo
20
.
Mô hình Nhà nước pháp quyền khoan
24
Số 02+03 (450+451) - T1+2/2022
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
dung cũng thừa nhận các chuẩn mực pháp lý.
Tuy nhiên, điều cốt lõi trong quan hệ giữa Nhà
nước, pháp luật và đạo đức là ở chỗ các cơ cấu
pháp lý là cơ sở để cá nhân hành động vừa theo
pháp luật vừa theo cả các nguyên tắc đạo đức
để rồi cuối cùng phải chịu trách nhiệm pháp
lý về hành vi của mình. Như vậy, pháp luật và
đạo đức đều trở thành chuẩn giá trị cho hành
vi nhưng trách nhiệm pháp lý vẫn là thước đo
cuối cùng. Nền tảng đạo đức của chế độ pháp
trị ở đây chính là các giá trị khoan dung và
công bằng. Pháp luật không chỉ dựa trên sự
phục tùng đơn thuần mà là một chế độ, một
trật tự tự giác và tự chịu trách nhiệm trên cơ
sở tự do tham gia vào các quá trình và quan hệ
xã hội.
Ở phương Tây và ở phương Đông, tư
tưởng Nhà nước pháp quyền đều gắn với pháp
luật, nhưng tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở
phương Đông chịu ảnh hưởng to lớn bởi tư
tưởng pháp trị coi pháp luật thuần túy là công
cụ trong tay Nhà nước, nên bước chuyển sang
tư duy Nhà nước phải chịu sự ràng buộc của
pháp luật là rất khó khăn và là thách thức thực
sự trên con đường xây dựng chế độ pháp quyền
ở đây. Thêm vào đó, những điều kiện tự nhiên,
kinh tế và xã hội khó khăn đã nuôi dưỡng quan
niệm coi trọng lợi ích của cộng đồng to hơn
lợi ích cá nhân con người nên ở đó có không
nhiều những cơ chế pháp lý hữu hiệu và ổn
định để bảo vệ quyền con người. Từ đó dẫn
đến việc người có chức quyền thiếu ý thức
tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của con
người và ngay cả người dân cũng ít có ý thức
về quyền. Như vậy nền chính trị ở mỗi nước
khác nhau, truyền thống văn hóa và đặc điểm
dân tộc khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử đã
dẫn đến những sự khác nhau trong cách hiểu
và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng
như cách thức vận dụng các đặc trưng chung
21
Kant Immanuel (1999) Critique of Pure Reason. The Cambridge edition of the Works of Immanuel Kant.
Translated by Guyer Paul, Wood Allen W. Cambridge University Press.
22
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,T. 1;
Nxb. Chính trị quốc gia-
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 174, 183-184
tải về 56.27 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương