Hình 2.6. Bể hiếu khí truyền thống
Bể hiếu khí hoạt động gián đoạn theo mẻ
Bể hiếu khí hoạt động gián đoạn theo mẻ (Sequencing Batch Reactor – Sau đây viết tắt là SBR) kết hợp cả 3 quá trình xử lý thiếu khí, xử lý hiếu khí và lắng bùn hoạt tính, được dùng để xử lý BOD và nitơ trong nước thải hữu cơ. Số bể SBR tối thiểu là 2.
Trong bể SBR, liều lượng bùn hoạt tính dao động từ 0,5g/l đến 6g/l. Thời gian cấp nước thải và diễn ra quá trình thiếu khí từ 1,0 giờ đến 1,5 giờ; thời gian sục khí tiếp theo từ 1,5 giờ đến 5,0 giờ; thời gian lắng, xả nước thải và bùn từ 1,5 giờ đến 2,5 giờ. Tổng thời gian một chu kỳ trong bể SBR từ 4 giờ đến 9 giờ. Lượng bùn giữ lại sau mỗi chu kỳ trong bể SBR thường chiếm 20 đến 30% thể tích bể (Trần Hiếu Nhuệ, 2001).
Bể hiếu khí thổi khí kéo dài
Bể Hiếu khí thổi khí kéo dài thường dùng để xử lý BOD, nitơ amoni và ổn định hiếu khí một phần bùn. Thời gian thổi khí trong bể hiếu khí ôxy hóa hoàn toàn t (h) phải lớn hơn 4 giờ. Các công trình phía sau bể hiếu khí thổi khí kéo dài để oxy sinh hóa hoàn toàn các chất hữu cơ được thiết kế theo các thông số sau (Hoàng Văn Hệ, Trần Đức Hạ, 2002):
Thời gian nước lưu lại trong vùng lắng của bể lắng đợt hai với lưu lượng lớn nhất không dưới 1,5giờ.
5
Lượng bùn hoạt tính dư chọn bằng 0,35 kg trên 1 kg BOD. Việc xả bùn hoạt tính dư cho phép thực hiện đối với bể lắng và bể hiếu khí khi liều lượng bùn đạt tới 5g/l - 6 g/L.
Độ ẩm bùn xả từ bể lắng là 98% và từ hiếu khí là 99,4%.
Hình 2.7. Bể hiếu khí thổi khí kéo dài
Mương ôxy hóa hoạt động theo nguyên lý bùn hoạt tính, được dùng để xử lý nước thải bậc 2 hay bậc 3. Lượng bùn hoạt tính dư là 0,4kg/kgBOD5 – 0,5 kg/kgBOD5, lượng không khí đơn vị là 1,25 mg/mgBOD5 – 1,45 mg/mgBOD5 cần xử lý. Mương ôxy hóa có hình ôvan, chiều sâu khoảng 1,0m - 2,0m (Hoàng Văn Huệ, Trần Đức Hạ, 2002).
Mương ôxy hóa làm thoáng trong bằng thiết bị cơ khí như máy khuấy trục đứng hoặc trục ngang, guồng quay,... đặt ở đoạn kênh thẳng. Hỗn hợp nước thải và bùn hoạt tính tự chảy từ kênh oxy hóa sang bể lắng thứ cấp. Bùn hoạt tính từ bể lắng thứ cấp được đưa liên tục vào mương. Thời gian nước lưu lại trong bể lắng thứ cấp bằng 1,5 giờ theo lưu lượng lớn nhất. Bùn tuần hoàn từ bể lắng 2 được dẫn liên tục về kênh.
Hình 2.8. Mương oxy hóa
Bãi lọc trồng cây (bãi lọc sinh học ngập nước)
Bãi lọc ngập nước để xử lý nước thải gồm hai dạng: ngập nước bề mặt và ngập nước phía dưới (bãi lọc ngầm), thường áp dụng đối với vùng đất cát pha và sét nhẹ để xử lý sinh học hoàn toàn nước thải sau khi đã được lắng sơ bộ. Các bãi lọc ngập nước thường được trồng cây phía trên nên thường được gọi tắt là bãi lọc trồng cây.
Bãi lọc được xây dựng trên khu đất bằng phẳng có độ dốc không quá 2% và có mực nước ngầm sâu trên 1,5 m. Bãi lọc ngập nước không được xây dựng trên những khu đất có sử dụng nước ngầm mạch ngang cũng như khu vực có hang động ngầm (vùng castơ).
Nước thải bệnh viện trước khi chuyển đến xử lý trong bãi lọc ngập nước phải được xử lý sơ bộ trong bể tự hoại hoặc trong các loại bể lắng sơ cấp khác.
Hình 2.9. Bãi lọc trồng cây
Trên khu đất làm bãi lọc ngập nước trồng các loại cây thân lớp hoặc thân rỗng và có rễ chùm. Các loại cây có hoa được khuyến cáo trồng trên bãi lọc ngập nước để tạo cảnh quan cho bệnh viện.
Hiệu quả xử lý BOD trong nước thải của bãi lọc ngập nước có thể tới 90%, hiệu quả xử lý theo Nitơ có thể tới 60%. Với thời gian lưu thủy lực lớn (từ 7 ngày đến hàng tháng).
Sử dụng hệ thống thiết bị hợp khối đúc sẵn
Do đặc điểm lưu lượng dòng thải không quá lớn nên một số cơ sở nhà máy sử dụng các hệ thống hợp khối chế tạo sẵn để dễ dàng thao tác, lắp đặt và vận hành hệ thống xử lý nước thải. Tuy nhiên, tùy vào từng đơn vị sản xuất mà thiết bị hợp khối thường chứa từ 1-3 công đoạn xử lý. Hệ thống hợp khối sẽ được giới thiệu cụ thể ở các chương tiếp theo để dễ dàng thao tác lắp đặt và vận hành hệ thống xử lý nước thải chế biến thực phẩm.
2.3.4. Sau xử lý
Sau xử lý là bước cuối cùng trong quá trình xử lý nước thải trước khi nước thải được thải ra môi trường tiếp nhận. Trong công đoạn sau xử lý có thể phải sử dụng đến nhiều biện pháp kết hợp. Trước khi khử trùng nước thải, cần thiết phải loại bỏ triệt để các chất hữu cơ lơ lửng còn tồn tại. Khử trùng nước thải từ cơ sở y tế phải được thực hiện, đặc biệt là khi nước thải xả vào nguồn nước sông, hồ.
Ngoài ra trong quá trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học thường phát sinh một lượng bùn sinh khối, lượng bùn này nhiều hay ít phụ thuộc vào thành phần đầu vào và lưu lượng nước thải, bùn sinh khối phát sinh cũng cần có biện pháp xử lý. Lượng bùn thải chứa các tác nhân ô nhiễm cũng cần được xác định và có biện pháp quản lý thích hợp.
Các kỹ thuật khử trùng nước thải:
Nước thải từ nhà máy hoặc từ các cơ sở hoạt động chế biến sau khi đã xử lý các chất ô nhiễm hữu cơ thường được khử trùng trước khi xả vào nguồn nước. Ngoài ra nếu xử lý cấp 2 bằng bãi lọc hay hồ sinh học ổn định với thời gian dài (khoảng 1 tháng) thì có thể không cần phải khử trùng. Để khử trùng có thể dùng các phương pháp sau:
Khử trùng bằng tia cực tím;
Khử trùng bằng Clo hoặc các hợp chất của Clo (clorua vôi, natri hypoclorid điều chế bằng điện phân);
Khử trùng bằng Ô zôn (sản xuất tại chỗ).
Khử trùng bằng tia cực tím (Ultraviolet radiation – UV)
Khử trùng bằng tia cực tím chỉ áp dụng đối với nước thải sau khi làm sạch sinh học hoàn toàn và hiệu quả hấp thụ tia cực tím của nước thải đạt tối thiểu là 70%. Công suất của thiết bị được lựa chọn dựa trên lưu lượng tính toán giờ phát sinh nước thải lớn nhất và với lưu lượng tính toán giờ phát sinh nước thải lớn nhất tại thời điểm có mưa trong trường hợp hệ thống sử dụng thoát nước chung. Lượng bức xạ được tính toán nhằm đảm bảo nồng độ coliforms trong nước sau khử trùng phải thấp hơn 3000 MPN/100 mL.
Bảng 2.4. Lượng bức xạ cần thiết để khử trùng bằng tia cực tím
Loại nước thải
|
Hiệu quả khử trùng (%)
|
Lượng bức xạ (J/m2)
|
Sau xử lý sinh học hoàn toàn
|
90,0
|
150 - 200
|
99,0
|
200 - 300
|
99,9
|
300 - 500
|
Nguồn: Trần Xoa và Nguyễn Trọng Khuông (2006)
Máng tiếp xúc khử trùng bằng tia cực tím được thiết kế bằng bê tông cốt thép, số đơn nguyên xác định tùy theo công suất trạm xử lý nhưng tối thiểu là 2 đơn nguyên. Mỗi đơn nguyên cần được trang bị tối thiểu 2 module đèn tia cực tím. Đèn cực tím có khả năng phát xạ 90% sóng UV có tần số 260 nm, công suất mỗi đèn không thấp hơn 26,7 UV-W. Các loại đèn thường được chế tạo dạng ống có chiều dài 0,75m - 1,5 m, đường kính 1,5cm - 2,0 cm. Đèn được bố trí cố định theo module. Các đèn trong từng module được lắp đặt song song với nhau, khoảng cách giữa tâm đèn 6,0 cm. Mỗi đèn được đặt trong ống lồng bằng thạch anh có độ dày 1mm, có khả năng truyền qua tối thiểu là 90% lượng phát xạ tia cực tím tại bước sóng 260 nm.
Thiết bị phát tia cực tím bao gồm:
Tủ điện điều khiển và phân phối điện trung tâm tới các module đèn tia cực tím và các thiết bị báo động;
Hệ thống đèn báo hiệu và quan trắc cường độ sóng UV;
Hệ thống gạt rửa các bóng đèn tia cực tím;
Hệ thống quản lý và điều khiển mức nước;
Hệ thống các tấm kính chắn an toàn và thiết bị ngăn ngừa ảnh hưởng sóng UV.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |