Đề bài: Phân tích 14 câu thơ đầu trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng



tải về 17.72 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.04.2022
Kích17.72 Kb.
#51505
Tây Tiến 14 câu đầu


Đề bài: Phân tích 14 câu thơ đầu trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

Bài làm


Quang Dũng là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông có một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, với những tác phẩm nổi tiếng như: “Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội. Trong đó, 14 câu thơ đầu của bài thơ là bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc và bước đường hành quân của người lính Tây Tiến:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”



Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt  Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Tất cả đã được Quang Dũng khắc hoạ rõ nét trong bài thơ vừa hào hùng vừa hết sức bi tráng.

Đoạn thơ khởi đầu bằng một nỗi nhớ bật lên thành lời:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy “chơi vơi” kết hợp với hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ: “ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Câu thơ chỉ có bảy từ thì có đến hai từ “nhớ”. Điệp từ “nhớ” như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là “ Nhớ Tây Tiến”. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm, sâu lắng. Nỗi nhớ tha thiết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.

Nối tiếp hai câu thơ khắc hoạ nỗi nhớ, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc bắt đầu hiện ra, trước hết là những địa danh, những địa bàn hoạt động mà đội quân đã từng một thời gắn bó.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

“Sài Khao”, “Mường Lát” là tên của những bản núi mù sương, nghe tuy lạ lẫm, nhưng lại là những cái tên đã đồng hành cùng người lính Tây Tiến suốt những tháng năm kháng chiến. “Sương lấp đoàn quân mỏi” là chi tiết tả thực khắc họa những khó khăn gian nan mà người lính Tây Tiến gặp phải trên con đường hành quân. Thiên nhiên núi rừng miền cao ẩn chứa biết bao những thử thách gian nan là thế nhưng vẫn có ở đâu đây những nét đẹp thơ mộng. Nhà thơ sử dụng hai từ “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương, hai chữ “đêm hơi” gợi nhiều hơn tả, nó như phác lên trong tâm trí của người đọc những nét vẽ thật mơ hồ, ảo diệu, dường như lại chẳng nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh “hoa về” như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. “Hoa” là những bông hoa trên tay trên vai trên áo trên mũ người lính trên đường hành quân, là hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn đường trong đêm tối, hay phải chăng “hoa” lại chính là người con gái người thôn nữ miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương thẳm sâu trong tâm hồn người chiến sĩ.

Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Điệp từ “dốc” gợi lên hình ảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm. Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên cao  xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi dường như chưa từng có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.

Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế hiên ngang, bất khuất của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn, xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.

Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cấu trúc thơ độc đáo, dùng động từ mạnh “gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở sự hoang sơ, hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những mối nguy hiểm khôn lường: “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú.

Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng chân tại một bản làng

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi”là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ mùi thơm “nếp xôi”, hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến.



Qua 14 câu thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã qua.
tải về 17.72 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương