Vượt Qua Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc


Đừng làm việc chỉ để đợi đến ngày



tải về 0.8 Mb.
Chế độ xem pdf
trang75/75
Chuyển đổi dữ liệu28.06.2022
Kích0.8 Mb.
#52523
1   ...   67   68   69   70   71   72   73   74   75
Vuot-len-nhung-chuyen-nho-trong-cong-viec-richard-carlson

Đừng làm việc chỉ để đợi đến ngày
nghỉ hưu
Thực tế, có nhiều người chỉ làm việc để đợi đến ngày nghỉ hưu,
bất kể họ có nhận thức được điều đó hay không. Họ mường tượng
cuộc sống sau khi nghỉ hưu sẽ tuyệt vời biết bao vì không còn những
gánh nặng trong công việc hằng ngày. Một vài người còn đếm hàng
tháng, hàng năm cho đến ngày nghỉ hưu. Họ để dành niềm vui, sự hài
lòng và thỏa mãn chờ ngày đó, như thể đang chờ thời cơ hoặc đang
chịu đựng một bản án chờ đến ngày được giải thoát vậy.
Dù đa số chúng ta không thể hiện lộ liễu những mong ước đó
nhưng nếu để ý, bạn vẫn có thể thấy mọi người thường mong đợi một
cuộc sống tốt hơn hiện tại. Mơ ước và nội dung các cuộc trao đổi với
đồng nghiệp, bạn bè thể hiện rất rõ điều ấy. Họ mong đợi về một ngày
mai tươi sáng – ngày họ chính thức về hưu, kiếm được nhiều tiền, có
thời gian cùng sự tự do để đi chơi hoặc làm bất kỳ điều gì họ muốn.
Nếu chúng ta cứ nghĩ về “một ngày mai tươi đẹp”, nghĩa là ta
đang khiến cho công việc hiện tại trở nên nhạt nhẽo và kéo dài đằng
đẵng. Thay vì sống hết mình, mở lòng đón nhận các cơ hội và thử
thách mới, chia sẻ món quà cuộc sống với mọi người, sẵn sàng học
hỏi và tiến bộ từ những trải nghiệm, ta lại chọn cách trì hoãn mọi
niềm vui của mình, sống mòn mỏi và thậm chí còn cảm thấy tiếc
thương cho bản thân.
Tôi tin rằng sẽ tốt hơn nếu bạn thức dậy mỗi sáng và tự nhắc nhở
bản thân rằng: “Hôm nay là ngày đầu tiên của những ngày còn lại
trong cuộc đời mình”. Hãy trân trọng món quà cuộc sống bằng cách
nỗ lực hết mình trong mọi việc. Hãy cố gắng giữ tầm nhìn, truyền
cảm hứng và đóng góp cho cuộc sống của người khác, dù là nhỏ bé
chăng nữa. Hãy nhắc nhở bản thân rằng tất cả các ngày đều như nhau
và ngày hôm nay cũng quan trọng như những ngày sắp tới (tức là
những ngày đã nghỉ hưu).
Một lý do quan trọng khác để tránh tình trạng này là nếu cứ mơ
mộng về cuộc sống sau khi nghỉ hưu, bạn sẽ dễ thất vọng khi ngày đó
thật sự đến. Bạn trì hoãn hạnh phúc hiện tại của mình để tưởng


tượng về hạnh phúc trong tương lai. Bạn mường tượng mọi điều. Khi
bạn tự nhủ với bản thân về hạnh phúc ngày sau nghĩa là bạn cảm thấy
cuộc sống hiện tại không đủ hạnh phúc. Bạn phải đợi cho tới khi mọi
chuyện khác đi, và cứ đợi mãi.
Cuối cùng, ngày quan trọng ấy đã đến – ngày đầu tiên bạn nghỉ
hưu. Thật tuyệt!
Nhưng đây chính là lúc vấn đề xuất hiện. Nếu hàng chục năm trời
bạn vẫn nghĩ cuộc sống hiện tại của mình không đủ hạnh phúc thì
thật nực cười khi tin rằng chỉ trong một phút chốc, khi vừa về hưu,
bạn có thể nghĩ khác đi và cảm thấy cuộc sống của mình thật tốt đẹp.
Điều này không bao giờ xảy ra. Không những thế, điều ngược lại sẽ
xảy đến. Bạn lại tưởng tượng đến một ngày khác tươi đẹp hơn. Vì đã
quen với cách nhìn nhận đó nên bạn sẽ vẫn tiếp tục trông đợi, bất kể
cuộc sống của bạn đã thay đổi ra sao.
Để giải quyết vấn đề này, bạn cần cảm thấy hạnh phúc ngay từ
bây giờ - bắt đầu tìm ra những mặt tốt nhất của công việc hiện tại và
xem nó như một chuyến phiêu lưu thú vị. Hãy sáng tạo và sáng suốt.
Hãy biến cách nhìn nhận này trở thành thói quen suy nghĩ của bạn.
Hãy thực hành lối tư duy lành mạnh và lạc quan vào mọi lúc. Khi làm
được như vậy thì dù thời điểm nghỉ hưu của bạn còn một năm hay
hai mươi năm sau, bạn vẫn hiểu được bí mật của hạnh phúc: Chẳng
có con đường nào dẫn đến hạnh phúc bởi hạnh phúc chính là một
con đường.
Hãy tiếp tục cuộc sống và mong đợi về một ngày nghỉ hưu tuyệt
vời. Lập kế hoạch cho ngày đó nhưng đừng quên chiều chuộng và yêu
thương bản thân mình mỗi ngày. Đừng đánh mất bất cứ khoảnh khắc
nào trên hành trình hướng đến ngày đó.
Tôi khép lại cuốn sách này trong niềm hy vọng rằng nó có thể
giúp ích cho bạn. Xin gửi đến bạn những lời chúc tốt đẹp nhất.
Và trên hết, hãy yêu thương bản thân mình, bạn nhé!


1. Trò chuyện (small talk): được hiểu là cách thức bắt đầu câu chuyện với
một người lạ (trong giao tiếp hằng ngày, trong công việc) và duy trì cuộc trò
chuyện đó, trước khi chính thức đi vào những vấn đề cốt yếu của câu chuyện
(big talk). Khái niệm 'small talk' là do tác giả sáng tạo ra, phân định rạch ròi
việc bắt chuyện làm quen khi mới gặp gỡ là'small talk', còn khi trao đổi công
việc mang tính trang trọng, nghiêm túc hơn là'big talk'. Chúng tôi tạm dịch
small talk là trò chuyện, làm quen, bắt chuyện; còn big talk là đối thoại.
2. Cleveland là người thành lập một trong những hãng quản lý thể thao đầu
tiên ở Mỹ
1. Calvin Coolidge (1872 - 1933) Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ nhiệm kỳ
1923 - 1929.
1. Phim Triệu phú ổ chuột kể câu chuyện một chàng trai trẻ xuất thân từ một
khu ổ chuột và bỗng nhiên trở thành triệu phú sau khi tham gia trò chơi Ai là
triệu phú? và trả lời được tất cả các câu hỏi..
(1) Một trò chơi gồm từ hai đến bốn người, trong đó mục tiêu của trò chơi là
bắt quả tang những người chơi gian lận nếu họ đang chơi sai lá bài.
1. Dagwood Bumstead: Một nhân vật chính trong truyện tranh dài kỳ
Blondie, được xuất bản lần đầu năm 1933. Dagwood nổi tiếng là người
thường xuyên gặp vấn đề rắc rối với mọi thứ.
1. Người Cro-Magnon sống cách đây 40-50 nghìn năm, vào cuối thời kỳ đồ
đá.
2. Kế hoạch Ponzi: Một hoạt động đầu tư lừa đảo hứa hẹn mang lại lợi nhuận
cao với ít rủi ro. Nó được đặt theo tên của Charles Ponzi - một kế toán tại
Boston, người đầu tiên đưa ra mô hình lừa gạt này năm 1919. Từ một kẻ vô
danh và rỗng túi, hắn trở nên nổi tiếng và giàu có toàn nước Mỹ.
3. Kiwanis Club: Một tổ chức tình nguyện hải ngoại của Mỹ, mục đích là tạo
dựng sự hợp tác lẫn nhau giữa mọi người trên thế giới.
1. Một nhân vật hoạt hình của hãng phim hoạt hình Hanan-Barbera.
2. Dick Tracy, James Bond: Các nhân vật trong phim hành động “Điệp viên
007” của Mỹ.
3. Dan Rather: Người dẫn chương trình nổi tiếng phụ trách bản tin tối trên
kênh CBS của Mỹ.
4. Gamma, theta, delta… là các hệ số của quyền chọn.
1. Bệnh liên quan tới tuyến giáp.
2. WASP: chỉ người thuộc tầng lớp thượng lưu, viết tắt của White Anglo-
Saxon Protestant (tín đồ Tin Lành người Mỹ da trắng gốc Anh).
1. Chính sách giảm thuế cho phép các tổ chức tiết kiệm bán các khoản vay
thế chấp của mình và dùng tiền mặt để xoay vòng với lợi tức cao hơn, thông
thường bằng cách mua các khoản vay rẻ từ các tổ chức tiết kiệm khác đang
đổ ra. Đơn giản, các tổ chức tiết kiệm trao đổi các danh mục khoản vay. Họ
bị lỗ nặng trong việc bán tháo này (bán các khoản vay với giá 65 xu - so với


giá 1 đô-la mà họ cho vay lúc đầu).
2. Thành ngữ này được nhiều người biết đến đặc biệt từ năm 1929, khi Đảng
Cộng hòa tuyên bố rằng mỗi công dân Hoa Kỳ sẽ có “a chicken in every pot”
(đủ cơm ăn áo mặc cho tất cả mọi người) nếu Herbert Hoover đắc cử trong
cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống năm đó.
* Việc bán khống cổ phiếu của Salomon quả thực là một vụ đầu cơ; giá cổ
phiếu hầu như giảm theo một đường thẳng từ 59 xuống 32 đô-la trước khi
sụp đổ vào tháng 10 năm 1987, mặc dầu phỏng đoán của các công ty môi
giới khác – đáng chú ý là First Boston và Drexel Burnham, cho rằng cổ phần
Salomon là một vụ đầu tư rất ngon ăn. Sau khi sụp đổ, nó đã hạ xuống còn
16 đô-la (TG).
+ Một trong những lời ca ngợi về thành công tài chính của Alexander có thể
tìm thấy trong cốt truyện Bonfire of the Vanities (Lửa phù hoa) của Tom
Wolfe. Wolfe mô tả nhân vật chính Sherman McCoy bị mắc vào tình trạng
khó xử với các trái phiếu chính phủ được bảo hiểm bằng vàng của Pháp –
gọi là trái phiếu Giscard. Chính Alexander là người phát hiện trái phiếu này
bị định giá sai và anh đã kiếm được hàng triệu đô-la từ việc khai thác sự định
giá sai đó (TG).
1. Tác phẩm binh pháp On War của Carl Von Clausewitz (1780-1831), nhà
lý luận quân sự người Phổ, rất nổi tiếng trong giới quân sự phương Tây.
* Wasserstein là cố vấn của Perelman, làm việc cho đối thủ cạnh tranh của
chúng tôi, First Boston. Ngạc nhiên là ở chỗ, thỏa thuân này lại hấp dẫn đến
nỗi anh ta phải nghỉ việc ở First Boston để quản lý Salomon nếu Perelman
giành chiến thắng. Rõ ràng là Bruce không được hạnh phúc lắm ở First
Boston. Anh ta từ chức vào tháng Giêng năm sau đó để mở công ty riêng,
Wasserstein, Perella & Co. Ở đó, tôi có cơ hội để phỏng vấn và hỏi trực tiếp
Wasserstein về tin đồn này. Anh ta là loại người mạnh mẽ, không bao giờ
nhìn xuống giày và ấp úng trả lời. Nhưng lần này, khi nghe câu hỏi, anh sụp
mắt xuống và hạ giọng: “Tôi không biết tin đồn này bắt đầu như thế nào, nó
có thể là sự thật hay không? Tôi đang ở Nhật Bản khi việc đặt giá được
thông báo.” Hmmm (TG).
** Quyền kiểm soát lại rơi vào tay Gutfreund vào năm 1984 nhờ sự hậu
thuẫn của Salomon trong khi Philbro gần như sụp đổ, ông ta thuyết phục hội
đồng quản trị sa thải David Tendler, CEO của Philbro. Sau đó, Gutfreund leo
từ chức CEO của chi nhánh Salomon Brothers lên chức CEO của công ty mẹ
Philbor Salomon – đổi tên lại thành Salomon Inc (TG).
* Kẻ ngồi lê đôi mách không bao giờ bị phát hiện. Tôi được biết rằng cho
đến tháng 10 năm 1988, cuộc truy tìm vẫn còn đang diễn ra (TG).
** Đó chắc chắn là sự thật. Vào cuối năm, không nhà quản lý nào từ chức.
Tom Strauss được trả 2,24 triệu đô-la. Bill Voute được 2,16 triệu đô-la và có
lẽ ngạc nhiên nhất là Dale Horowitz, người đứng đầu một ban bị giải thể,


chịu trách nhiệm về sự dính líu của chúng tôi tại Columbia Circle, được trả
1,6 triệu đôla. Tuy nhiên, Gutfreund đã thôi không được nhận khoản tiền
thưởng của ông ta, chỉ vẻn vẹn 300.000 đô-la tiền lương và 800.000 đô-la
đền bù trả chậm. Thay vào tiền thưởng, Gutfreund được nhận 300.000 cổ
phiếu quyền chọn mà vào thời gian đó trị giá hơn 3 triệu đô-la (TG).
1. Mỉa mai thay, sau này tôi biết rằng Southland thành công, vì nó đã hồi
phục. Nhưng mối hoài nghi của tôi về kỹ năng trái phiếu thứ cấp của
Salomon Brothers không thay đổi. Khoảng giữa năm 1988, hai giao dịch
LBO đầu tiên trị giá hàng tỷ đô-la, lớn nhất tại Mỹ và được Phố Wall đỡ đầu
đã bị phá sản. Chuỗi cửa hàng dược phẩm Revco, được mua lại bởi ban quản
trị bằng trái phiếu thứ cấp, đã nộp đơn phá sản (TG).
*** Việc này không đem lại hiệu quả. Như John Gutfreund giải thích cho
các cổ đông trong báo cáo thường niên vào năm 1987: “Bằng cách thực hiện
đúng cam kết của chúng tôi với khách hàng và tiếp tục việc nắm cổ phần
công ty BP, khi sụp đổ xảy ra Salomon Brothers đã chịu khoản lỗ 79 triệu
đô-la trước thuế (TG).”
1. Sam Bowie: Một vận động viên bóng rổ của Liên đoàn Bóng rổ Mỹ,
người có lẽ nổi tiếng nhất về chuyện được NBA xếp trên Michael Jordan
trong Bảng xếp hạng năm 1984.
2. Abraham Lincoln là chính trị gia Đảng Cộng hòa. Stephen Douglas là
chính trị gia Đảng Dân chủ. Trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 1960,
Lincoln đã chiến thắng Douglas, trở thành tổng thống thứ 16 của Mỹ.
1. Chiến tranh Yom Kippur hay còn gọi là Chiến tranh Ả Rập- Israel 1973 là
cuộc chiến nổ ra từ ngày 6 đến 26/10/1973 khi liên minh các quốc gia Ả Rập
do Ai Cập và Syria dẫn đầu chống lại Israel. Cuộc chiến bắt đầu khi quân Ai
Cập và Syria bất ngờ đồng loạt tấn công Israel trong ngày lễ Yom Kippur,
ngày lễ Sám hối của người Do Thái.
1. Alexis de Tocqueville (1805-1859): nhà tư tưởng chính trị, học giả người
Pháp, nổi tiếng nhất với tác phẩm Nền dân trị Mỹ. Trong tác phẩm này, ông
khẳng định rằng nền dân trị là hình thức xã hội duy nhất có thể trong thời
hiện đại. Ở Mỹ, từ lâu, tác phẩm này của ông, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc
lậpvà Hiến pháp Mỹ, được tôn thờ như một thứ tôn giáo và tiên tri chính trị.
2. Branko Milanovic: nhà kinh tế học, nhân viên WB, chuyên nghiên cứu về
bất bình đẳng thu nhập và toàn cầu hóa.
1. Richard Nixon (1913-1994): Sau này trở thành Tổng thống thứ 37 của
Mỹ, nhiệm kỳ 1969 -1974.
2. Alabama: cách nói hài hước của tác giả, Alabama là một tiểu bang của
Mỹ.
3. Hồ Volta: xây dựng trên sông Volta, là đập nhân tạo lớn nhất thế giới, dài
khoảng 400km.
4. Mô hình Harrod-Domar: Mô hình lý giải tăng trưởng kinh tế là do lượng


vốn đưa vào sản xuất tăng lên.
5. Hội Quốc liên (League of Nation): tổ chức tiền thân của Liên hợp quốc
sau này.
1. Jubilee 2000: Một phong trào quốc tế diễn ra vào năm 2000 tại hơn 40
nước, kêu gọi xóa nợ cho các nước thế giới thứ 3.
1. Đường 128 (Route 128): Là một phần con đường vành đai bao quanh
thành phố Boston, bang Massachuset, Mỹ. Do sự phát triển của công nghiệp
công nghệ cao quanh khu vực đường 128, con đường này được coi là biểu
tượng của cộng đồng công nghệ cao của Boston.
1. Jason – dũng sĩ trong thần thoại Hy Lạp, người đã dẫn đoàn chiến binh
Argo vượt biển đi tìm bộ lông cừu vàng để dâng lên các vị thần bảo hộ con
người.
1. “Bearing up” là cách nói tiếng Anh của người Anh, còn tiếng Mỹ tương
ứng là “I’m managing' hoặc “I’m getting by”.
1. Câu 7 còn có thể dùng các câu khác để biểu đạt ý tương tự: Do I claim
parcels here? Do I get my parcels here? Is this where I get my parcels? Are
parcels claimed here? Is this the window for claiming parcels?
1. Khi nói chuyện điện thoại bằng tiếng Anh thì không dùng đại từ I và You
để chỉ mình và người đối thoại, mà phải dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba
là It hoặc đại từ chỉ thị This, That. Ví dụ khi nói: Tôi là ......... thì dùng It’s
hoặc This is ........; khi hỏi người đối thoại là ai thì dùng Who’s that? hoặc
Who’s it?
2. Khi biểu thị việc gọi điện thoại, người Mỹ thường dùng “call”, còn người
Anh thì dùng “ring”. Trong hoạt động buôn bán, khi nhận điện thoại thì
trước tiên thường nói cho người đối thoại biết số của công ty. Khi gọi điện
thoại riêng, thông thường chỉ cần nói số điện thoại của mình.
Tên viết tắt của tập đoàn máy tính INTegrated Electronics, do Gordon
Moore và Robert Noyce thành lập năm 1968. Ban đầu chỉ là một công ty sản
xuất thiết bị điện tử, nhưng nhờ sự phát triển vũ bão của công nghệ máy tính
mà ngày nay Intel nằm trong số 50 công ty lớn nhất thế giới với doanh thu
hàng năm hơn 35 tỷ đô la.
(*) Wallace Earle Stegner (1909 –1993): Nhà sử học, nhà văn và nhà môi
trường học nổi tiếng người Mỹ.




tải về 0.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   67   68   69   70   71   72   73   74   75




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương