Trong khối ASEAN thì In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, và Thái Lan là những nước
Tốc độ công nghiệp hóa tại các nước này trong những năm gần đây tiến triển rất
nhanh, đưa các nước này trở thành những “con hổ” Châu Á. Các nước ASEAN đều tiến
quốc tế (có sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu hướng
khu vực hoá, toàn cầu hoá thương mại đang diễn ra rất sôi động). Mô hình CNH mà các
nước này áp dụng là kết hợp sức mạnh của thị trường với sự dẫn dắt của Nhà nước.
cuu duong than cong . com
Trong mối quan hệ đó, Nhà nước với ưu thế về tính kế hoạch thống nhất sẽ điều tiết thị
trường, còn thị trường với ưu thế năng động và linh hoạt sẽ điều tiết các doanh nghiệp,
khắc phục những thiếu khuyết của Nhà nước. Như vậy có nghĩa là, tốc độ hoàn thành
CNH nhanh hay chậm của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhà nước tại
chính quốc gia đó.
Vai trò Nhà nước tại các nước ASEAN trong CNH khác với Nhà nước Liên Xô trước đây.
Đó là, Nhà nước Liên Xô đóng vai trò là người trực tiếp tổ chức, quản lý và thực hiện
quá trình CNH với công cụ chủ yếu là kế hoạch hoá tập trung cao độ; thì tại các nước
ASEAN vai trò Nhà nước được phát huy trong điều kiện gắn với quan hệ thị trường. Hệ
thống điều tiết của Nhà nước tại các nước này được thiết lập không phải chỉ dựa vào
sức mạnh quyền lực và chi phối tuyệt đối quá trình CNH, mà Nhà nước căn cứ vào thị
trường để định hướng, quy hoạch, kiểm soát và hỗ trợ CNH theo các mục tiêu của
mình, thông qua việc ban hành các luật lệ, chính sách kinh tế và xây dựng bộ máy điều
hành. Mục tiêu can thiệp của các Nhà nước ASEAN là nhằm làm cho thị trường hoạt
động có hiệu quả hơn, nhờ đó sẽ khai thác triệt để hơn các nguồn lực phục vụ quá
trình CNH. Cũng khác với Nhật Bản, Nhà nước các nước ASEAN không chỉ là người đầu
tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, đưa ra các chính sách khuyến khích tiếp thu kỹ
thuật, công nghệ của nước đi trước, tôn trọng và nuôi dưỡng sáng kiến cá nhân, mà
còn có những chính sách cụ thể nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp, tiếp nhận
chuyển giao công nghệ và mở rộng luồng vốn tài chính từ nước ngoài để đẩy nhanh tốc
độ CNH đất nước.
Để thu hút kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước đi trước phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa nước mình một cách hiệu quả nhất, Nhà nước các nước
ASEAN đã chủ trương mở rộng thị trường, tạo môi trường để dòng vốn, công nghệ và
chuyên gia của nước ngoài “chảy” vào nền kinh tế một cách nhanh chóng, thuận lợi.
Chẳng hạn, để tăng năng lực công nghệ quốc gia, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, một mặt Nhà nước tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho các hoạt động nghiên
cứu - triển khai; và mặt khác, khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực đó... Ngoài ra,
các nước còn thực hiện các chính sách khuyến khích, kêu gọi các nhà khoa học, chuyên
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
gia kỹ thuật đang ở nước ngoài về nước làm việc, và “nhập khẩu” cả các chuyên gia, kĩ
sư giỏi của nước ngoài với chế độ đãi ngộ đặc biệt. Đó thực sự là những đột phá cho
việc đẩy nhanh tiến trình HĐH nền kinh tế tại các nước ASEAN.
Để thu hút FDI, Chính phủ các nước ASEAN đã mở rộng cửa nền kinh tế đi kèm với
nhiều chính sách ưu việt như: mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài, tạo bầu
không khí thuận lợi cho đầu tư, khuyến khích vật chất... để các công ty đa quốc gia lựa
chọn đất nước mình làm “công xưởng” của thế giới. Chính phủ các nước ASEAN đều
ban hành các chính sách phát triển khoa học - công nghệ phù hợp với điều kiện của
nước mình. Chẳng hạn, tại Xinh-ga-po Chính phủ bỏ ngân sách để xây dựng công viên
khoa học - công nghệ, còn In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin thì xây dựng các khu chế
xuất.v.v… Kết quả là nhiều công ty từ các quốc gia phát triển đã tìm đến ASEAN, trong
đó nhiều nhất là từ Nhật Bản và Mỹ. Tại Ma-lai-xi-a, nhờ biết tận dụng những ưu việt
của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, cơ cấu kinh tế - xã hội đã nhanh chóng
chuyển dịch theo hướng hiện đại, vững vàng bước vào nền kinh tế tri thức. Có thể thấy,
việc tập trung nỗ lực phát triển các ngành công nghiệp điện tử, vi tính, thông tin và
viễn thông trên cơ sở nguồn công nghệ trực tiếp và chủ yếu từ Nhật Bản và các công ty
đa quốc gia là sự lựa chọn mang tính quyết định hướng tới tương lai của Ma-lai-xi-a.
Đối với Thái Lan, có thể nhận thấy một sự kết hợp hết sức khéo léo giữa mục tiêu CNH
và thu hút đầu tư nước ngoài qua chính sách thu hút FDI năng động, liên tục được điều
chỉnh để thích nghi với từng thời kỳ phát triển đất nước. Thành công của Thái Lan trong
lĩnh vực này là chính sách thông thoáng và được thực hiện bởi một bộ máy Nhà nước
hiệu quả. Thái Lan luôn xác định đối tác trọng điểm để thu hút đầu tư, từ đó xây dựng
các bộ phận chuyên trách riêng biệt cho từng nguồn xuất xứ của nhà đầu tư. Chính sự
chuyên môn hóa và tổ chức này đã đáp ứng nhu cầu cụ thể của các nhà đầu tư nước
ngoài có quốc tịch khác nhau.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: