83
Nếu như thông qua góc nhìn trên, phân tích mối
liên hệ giữa hai tác phẩm “Kim Vân Kiều Truyện” của
hai nước Việt - Trung, ta thấy từ tình tiết câu chuyện, sự
cấu thành nhân vật đến ngôn ngữ miêu tả không thể phủ
nhận tiểu thuyết “Kim Vân Kiều Truyện” thời Minh -
Thanh là bản gốc được Nguyễn Du dịch thuật và sáng
tạo thành bản thơ Nôm lấy tên là “Truyện Kiều”. Ngoài
ra Nguyễn Du cũng đã kết hợp khá nhiều những câu thơ
và điển cố của văn học Trung Hoa, từ đó dịch lại đồng
thời kết hợp sáng tạo nhân tố mới thành “Truyện Kiều”.
Mặt khác, thi hào Nguyễn Du đã có ý làm nổi bật sự khác
biệt giữa thơ Nôm lục bát với ngôn ngữ và văn hóa của
thể loại tiểu thuyết thời Minh Thanh của Trung Quốc, từ
đề tài văn học, tục ngữ, so sánh, khắc họa nhân vật đến
vẻ đẹp âm điệu,… đều đã được ông xử lí thành công.
Các yếu tố này chứng minh sự khác biệt đó. Chính vì
thế, học giả Việt Nam rất tôn sùng “Truyện Kiều”, coi
đó như một tác phẩm có màu sắc ngôn ngữ dân tộc đặc
sắc nhất trong lịch sử văn học cổ điển Việt Nam. Cách
hành văn tinh tế của “Truyện Kiều” không thể dùng ngôn
ngữ biểu đạt hết được. Nếu có một tác phẩm nào khác
muốn sánh ngang với “Truyện Kiều” thì quả là như đang
mơ. Có thể nói tác phẩm thơ tiếng Việt bản La tinh này
đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ngôn ngữ
[8, tr.30].
Nói như vậy để thấy rằng phủ nhận một cách đơn giản
thành tựu văn học của bản dịch mới “Truyện Kiều” là
điều không tưởng. Thực ra các tác phẩm văn học trên
thế giới khi truyền bá ra ngoài thì hiện tượng tồn tại
khác biệt là không tránh khỏi. Nhiều khi những tác
phẩm dịch thuật lại mang đến sức sống mới cho nguyên
bản. Do lịch sử và văn hóa lâu đời giữa hai nước Việt -
Trung, lịch sử văn học Việt Nam không chỉ có tác phẩm
văn học “Truyện Kiều” là thông qua việc cấu trúc lại rồi
dịch sáng tạo từ các tiểu thuyết thời Minh -Thanh. Ví dụ
như: từ “Hoa tiên kí” đến “Hoa tiên truyện”; từ “Tùy
Đường diễn nghĩa” đến “Quân trung đối ca”, từ “Nữ tú
tài di hoa tiếp mộc” đến “Nữ tú tài truyện”; từ “Thôi
Tuấn thần xảo hội Phù Dung bình” đến “Phù Dung tân
truyện”; từ “Trung hiếu tiết nghĩa nhị độ mai” đến “Nhị
độ mai truyện”; từ “Tây du kí” đến “Tây du truyện”; từ
“Quan Âm xuất thân năm du kí truyện” đến “Phật Bà
Quan Âm truyện”; từ “Long đồ bảo quyển” đến
“Phương Hoa truyện”...
[9, tr.83]. Từ góc nhìn của chủ
nghĩa giải cấu trúc luận cho chúng ta một phương pháp
hợp lí, khách quan nhìn nhận về sự lưu truyền, kết cấu và
hình thức sáng tạo của tiểu thuyết thời Minh Thanh tại Việt
Nam. Lấy sự ra đời và ảnh hưởng của “Truyện Kiều” làm
ví dụ, việc thừa nhận sự ảnh hưởng sâu sắc của tiểu thuyết
“Kim Vân Kiều Truyện” thời Minh - Thanh đối với văn
học Việt Nam, không phải là đang phủ nhận giá trị văn học
và địa vị của bản dịch mới, “Truyện Kiều”. Ngược lại,
chính vì Nguyễn Du không ngừng tái cấu trúc và sáng tạo
đối với tiểu thuyết “Kim Vân Kiều Truyện” mà tác phẩm
này mới được độc giả quan tâm biết đến. Đây chính là
công lao và đóng góp của người dịch.
Nói tóm lại, các nhà văn thời trung đại Việt Nam
không chỉ am hiểu sâu sắc tiếng Hán, mà còn tường tận
lịch sử và văn hóa Trung Hoa cho nên rất đam mê các
tác phẩm văn hóa cổ điển Trung Hoa cũng như những
tiểu thuyết thời Minh Thanh tràn đầy thế tục hóa và đáp
ứng nhu cầu đọc sách của tầng lớp dân chúng. Bất luận
là chịu ảnh hưởng phong cách sáng tác tiểu thuyết lịch
sử thời Minh - Thanh mà biên soạn ra tiểu thuyết lịch sử
diễn nghĩa như “Hoàng Việt xuân thu”, “Việt Nam khai
quốc chí truyện”, “Hoàng Lê nhất thống chí ”,… hay là
giải cấu trúc tiểu thuyết tài tử giai nhân ra thơ Nôm lục
bát “Truyện Kiều”, “Hoa tiên truyện ” và “ Nhị độ mai
truyện ”,... Văn nhân Việt Nam đã thành công trong việc
học hỏi, giải/tái cấu trúc và xử lí sáng tạo, làm cho
nhiều tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam lưu truyền
rộng rãi, đồng thời với vị trí và sự lưu truyền của nó đã
gián tiếp nói lên sự ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn của
tiểu thuyết thời Minh - Thanh ở Việt Nam. Điều này
làm nổi bật lên hiện tượng mang tính giao thoa, sự giao
lưu văn học hai nước Việt - Trung thời kì đó.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |