cứu mỏ dầu khí nói chung mới được bắt đầu từ những năm 1960 của thế kỷ
10
trước, còn các nghiên cứu về đá móng kết tinh chứa dầu chỉ thực sự bắt đầu khi
tình cờ phát hiện ra dầu trong đá móng kết tinh ở mỏ Bạch Hổ và các nghiên
cứu chỉ tập trung vào mỏ Bạch Hổ sau này là các mỏ Rồng, Rạng Đông, Ru
Bi,….
Các kết quả nghiên cứu cho thấy thân dầu trong đá móng granitoit là thân dầu
không tiền lệ về mặt cấu trúc, về đặc trưng thấm chứa, về cơ chế hình thành
cũng như về mức độ và phân bố sản phẩm. Trong đó thân dầu móng granitoit
có tầng nước vỉa có áp cung cấp năng lượng trong quá trình khai thác như mỏ
STĐ sau này là Rạng Đông, Nam Rồng Đồi Mồi là chưa có tiền lệ. Do đó các
công trình nghiên cứu nước vỉa mỏ dầu chưa nhiều và tập chung chủ yếu cho
các đối tượng là trầm tích cát kết còn cho các thân dầu móng còn rất hạn chế.
Mặc dù các công ty hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam cũng đã thực hiện các
công tác có liên quan đến nước trong các mỏ dầu: LDDK Vietsovpetro, Công
Ty Cửu Long JOC, BHP, BP, JVPC, Petronas, Talisman thể hiện trong các báo
cáo sản xuất nhưng chỉ dừng ở mức độ coi nước vỉa như là một thể chất lưu
đồng hành bất đắc dĩ nên các công tác điều tra nghiên cứu rất hạn chế và thiếu
tính hệ thống.
Tuy nhiên công tác nghiên cứu nước vỉa mỏ dầu khí đáng kể phải kể đến công
trình do PGS.TS Hoàng Đình Tiến và Nguyễn Thuý Quỳnh công bố trong
tuyển tập báo cáo khoa học 15 năm XN LDDK Vietsovpetro, năm 1996 đã
đánh giá được các đặc trưng cơ bản của điều kiện ĐCTV mỏ Bạch Hổ, các tác
giả đã nêu được các đặc điểm cơ bản của nước mỏ dầu Bạch Hổ.
Năm 1999 trong các công trình nghiên cứu sự hình thành thành phần hoá học
nước dưới đất và đặc điểm địa chất thuỷ văn các mỏ dầu khí, Nguyễn Kim
Ngọc và các cộng sự đã thiết lập được nguồn gốc, điều kiện, các quá trình ảnh
hưởng đến hình thành thành phần hoá học nước dưới đất các mỏ dầu khí, lập cơ
sở phân loại nước mỏ DK theo các điều kiện khác nhau.
Đặc biệt năm 2001, Hoàng Đình Tiến và Nguyễn Thúy Quỳnh đã công bố kết
quả nghiên cứu chứng minh sự tồn tại của nước vỉa mỏ Bạch Hổ qua kết quả
nghiên cứu nước khai thác đồng hành từ giếng khai thác GK-110, kết quả phân
tích chỉ ra nước vỉa tồn tại trong móng Bạch hổ độ sâu 4385m ở vòm Bắc với
11
độ khoáng hóa thấp (4-5g/l) thuộc loại nước Clorucanxi. Tuy nhiên nghiên cứu
chưa đánh giá trữ lượng cũng như đề cập đến ảnh hưởng của tầng nước vỉa này
tới khai thác.
Năm 2004 PGS.TS Trần văn Xuân trong đề tài luân án tiến sỹ đã công bố đặc
điểm địa chất thuỷ văn bồn trũng Cửu long, có phân chia chi tiết các tầng địa
chất thuỷ văn, Các đơn vị chứa nước trong bồn trũng, đặc điểm địa chất thuỷ
văn mỏ Bạch hổ cũng như ý nghĩa của nghiên cứu địa chất thủy văn trong tìm
kiếm dầu khí.
Gần đây trong đề tài luận văn tiến sĩ của mình Đặng Ngọc Quý có đề cập đến
các yếu tố địa chất ảnh hưởng tới hệ số thu hồi dầu cho mỏ Sư Tử Đen và Sư
Tử Vàng trong đó phân tích các yếu tố địa chất như đặc điểm thạch học, thành
phần đá xâm nhập (granit, granodiorit), thành phần đá đai mạch, các quá trình
biến đổi thứ sinh (phong hóa, thủy nhiệt), đặc điểm đứt gãy và khe nứt, các chế
độ năng lượng vỉa (Khí hòa tan, giãn nở, nguồn nước có áp…) ảnh hưởng tới
chất lượng thấm chứa của tầng đá móng và đánh giá sơ bộ ảnh hưởng tới hệ số
thu hồi dầu cuối cùng . Tuy nhiên luận văn chưa đi sâu vào phân tích các dấu
hiệu nhận diện sự tồn tại của tầng nước vỉa nhằm kịp thời hiệu chỉnh chế độ vận
hành khai thác, sơ đồ công nghệ khai thác, làm tiền đề áp dụng thiết kế phát
triển cho các mỏ mới tương tự, luận văn cũng chưa mô tả được đặc điểm thành
phần hóa lý của nước vỉa thân dầu móng STĐ, chứng minh nguồn gốc, điều
kiện hình thành, cơ chế vận động, qui mô phân bố, mức độ biến đổi cũng như
ảnh hưởng của tầng nước vỉa tới hiệu quả khai thác nhằm xác định đánh giá ảnh
hưởng các yếu tố đến hiệu quả khai thác.
Tóm lại các công trình nghiên cứu về nước vỉa trong tìm kiếm, thăm dò và khai
thác dầu khí cũng như ứng dụng nó trong thiết kế khai thác đặc biệt với các
thân dầu trong móng granit nứt nẻ chưa nhiều và mới chỉ dừng ở mức độ
nghiên cứu chung hoặc đánh giá đơn lẻ chưa hệ thống hoá hoặc và đúc kết
thành qui luật, chưa xác định ảnh hưởng tới hiệu quả khai thác…cũng như đề ra
hệ phương pháp luận nhằm giảm các tác động xấu và tối đa các ảnh hưởng tích
cực. Có thể do sự tồn tại của nước vỉa trong móng granit còn khá mới mẻ, phức
12
tạp nên hy vọng đề tài nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm các giải pháp
khai thác và phát triển các mỏ dầu trong thân đá granit nứt nẻ.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: