Hải Phòng, ngày 01 tháng 09 năm 2016


Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh



trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích1 Mb.
#38746
1   2   3   4

1.1.2.3. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh


Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực lao động xã hội. Vì nguồn lực chỉ có hạn, khan hiếm và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nên yêu cầu doanh nghiệp cần phải triệt để trong việc vận dụng cũng như việc khai thác các nguồn lực một cách hợp lý nhất. Giúp đạt được mục tiêu cao nhất trong kinh doanh thì doanh nghiệp phải luôn chú trọng tới các điều kiện nội tại, phát huy hiệu năng của các yếu tố và tiết kiệm mọi chi phí.

Vì vậy, “yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định. Chi phí ở đây là chi phí để tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận để thấy được lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính nh­ư vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phư­ơng án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả cao hơn.” [11]


1.1.2.4..Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp


Hiệu quả kinh doanh là một trong những công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc kinh doanh đạt ở trình độ, các nhân tố ảnh hưởng để đưa ra các biện pháp thích hợp giúp tăng hiệu quả và giảm chi phí cho Công ty.

Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc lựa chọn phư­ơng án kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp với trình độ của mình để đạt đư­ợc mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, thì bài toán khó cho doanh nghiệp ở đây chính là làm thế nào tối ưu nguồn lực có sẵn để đạt được hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, có thể nói rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là thước đo trình độ của nhà quản trị.

Ngoài những chức năng trên của hiệu quả kinh doanh, nó còn có vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp đều mong muốn nguồn thu nhập phải không ngừng tăng lên, như­ng trong điều kiện các yếu tố và nguồn vốn chỉ thay đổi trong khuôn khổ thì các doanh nghiệp phải nâng cao được hiệu quả kinh doanh thì mới tăng được lợi nhuận.

Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu và sự tích lũy cho xã hội, đáp ứng đư­ợc nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Vì thế chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như­ là một nhu cầu tất yếu.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Khi tham gia vào cơ chế thị trư­ờng là doanh nghiệp đã phải chấp nhận sự cạnh tranh, điều đó yêu cầu mỗi doanh nghiệp có những sự tìm hiểu, đầu tư nghiêm túc để tạo nên được sự tiến bộ khác biệt trong kinh doanh. Và khi thị trư­ờng càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng gay gắt hơn. Do đó doanh nghiệp cần phải cung cấp được những dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý thì mới có thể chiến thắng sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó giúp đảm bảo được sự tồn tại và phát triển bền vững.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp, là nhân tố tạo nên sự thành công cho doanh nghiệp, vì thế các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.

1.1.3. Phân loại hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

1.1.3.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội

+ Hiệu quả kinh doanh cá biệt: là hiệu quả thu được của từng doanh nghiệp kinh doanh từ các hoạt động thương. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.

+ Hiệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, giải quyết việc làm, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách và cải thiện đời sống nhân dân.

1.1.3.2. Hiệu quả tổng hợp và hiệu quả bộ phận

Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định, gồm:

+ Hiệu quả tổng hợp: mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó theo mục tiêu đặt ra. Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ để xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Hiệu quả bộ phận: là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong quá trình thực hiện các mục tiêu xã hội như giải quyết việc làm, nộp ngân sách nhà nước, vấn đề môi trường... Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả xã hội là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội.

1.1.3.3.Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.


+ Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.

+ Hiệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án.


1.1.3.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.


Dựa vào lợi ích nhận được trong một khoảng thời gian mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian ngắn còn hiệu quả lâu dài là trong một khoảng thời gian dài. Khi tiến hành các hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ cố gắng làm sao để mang lại cả lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho chính doanh nghiệp.

1.2. Các phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

1.2.1. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả kinh doanh

Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp nó liên quan đến nhiều yếu tố vì vậy khi xét đến chỉ tiêu này cần dựa trên một số nguyên tắc sau:

-Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.

-Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.

-Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh : Chỉ có như vậy, phương án kinh doanh của doanh nghiệp mới có đủ cơ sở khoa học, đảm bảo lòng tin của người lao động, hạn chế rủi ro, tổn thất.

-Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh.


1.2.2. Các phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh


1.2.2.1.Phương pháp so sánh:

Đây là phương pháp chủ yếu dùng trong phân tích hoạt động kinh doanh để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để tiến hành được cần xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện, mục tiêu để so sánh.



Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh :

+ Tiêu chuẩn so sánh là giá trị của một kỳ nào đó được chọn làm gốc cho mọi lần so sánh. Gốc so sánh có thể là tài liệu năm trước, tài liệu kỳ kế hoạch, tài liệu định mức.

+ Giá trị của chỉ tiêu ở một kỳ nào đó đem so sánh với giá trị của chỉ tiêu ở kỳ được chọn là kỳ gốc được gọi là giá trị của chỉ tiêu kỳ nghiên cứu.



Điều kiện so sánh : Hai chỉ tiêu đem so sánh với nhau phải đảm bảo thống nhất cả về thời gian và không gian.

+ Các chỉ tiêu phải cùng nội dung kinh tế.

+ Cùng phương pháp tính.

+ Cùng đơn vị đo lường.

+ Các chỉ tiêu đem so sánh với nhau phải được quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện kinh doanh tương tự nhau.

Mục tiêu so sánh :

+ Xác định mức độ biến động tuyệt đối và mức độ biến động tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.



Kỹ thuật so sánh :

* So sánh bằng số tuyệt đối : Là kết quả của phép trừ giữa hai chỉ tiêu đem so sánh với nhau

* So sánh bằng số tương đối : Là kết quả của phép chia giữa hai chỉ tiêu đem so sánh với nhau .

1.2.2.2. Phương pháp thay thế liên hoàn

-Xác định số lượng các nhân tố ảnh hưởng, mối quan hệ của các nhân tố với chỉ tiêu phân tích, công thức tính chỉ tiêu.

-Sắp xếp các nhân tố theo một trình tự nhất định, nhân tố số lượng xếp trước và chất lượng đứng sau.

-Xác định đối tượng cụ thể của phân tích:


Đối tượng cụ thể của phân tích

=

Trị số của chỉ tiêu kỳ phân tích

-

Trị số của chỉ tiêu kỳ gốc

-Tiến hành thay thế và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố

-Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đúng bằng với đối tượng cụ thể của phân tích

1.2.2.3. Phương pháp chênh lệch (phương pháp loại trừ):

Đây là phương pháp phân tích dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng phân tích. Nó là trường hợp đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn. Chính vì vậy phương pháp chênh lệch cũng tuân thủ đầy đủ nội dung và nguyên tắc của phương pháp thay thế liên hoàn.

1.2.2.4. Phương pháp hồi quy

Hồi quy là phương pháp toán học, được vận dụng trong phân tích kinh doanh để biểu hiện và đánh giá mối quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp hồi quy là phương pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Phương pháp hồi quy gồm :

- Phương pháp hồi quy theo biến thời gian t.

- Mô hình hồi quy hay tương quan giữa hai hiện tượng.

1.2.2.5. Các phương pháp khác

+ Phương pháp cân đối

Phương pháp này dùng để phân tích Bảng cân đối kế toán, phân tích cân bằng giữa hai mặt đó là : Tổng giá trị tài sản = Tổng nguồn vốn, Tổng doanh thu = Tổng chi phí. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.



+ Phương pháp so sánh theo chiều ngang

Phương pháp này dùng để phân tích báo cáo tài chính như Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp, bảng cân đối kế toán dạng rút gọn.Phương pháp này cũng được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính của doanh nghiệp.



+Phương pháp so sánh theo chiều dọc

Phương pháp này dùng để phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở cùng một kỳ. Phương pháp này cũng được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính của doanh nghiệp.



+ Phương pháp chi tiết theo thời gian

Phương pháp này giúp ta đánh giá kết quả kinh doanh được xác thực, kịp thời và tìm các biện pháp có hiệu quả cho hoạt động kinh doanh.Tùy đặc tính của quá trình kinh doanh, tuỳ đặc trưng kinh tế của chỉ tiêu phân tích và mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoảng thời gian cần thiết khác nhau để phân tích.

1.3. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu lao động

1.3.1. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu lao động



1.3.1.1. Khái niệm về xuất khẩu lao động

Xuất khẩu lao động là một loại hình của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận thuộc kinh tế đối ngoại nói riêng, trong lĩnh vực này thì hàng hóa được đem ra trao đổi chính là hàng hóa sức lao động. Nói một cách rõ ràng hơn thì xuất khẩu lao động chính là loại hình kinh tế cung ứng nguồn lao động nội địa cho người sử dụng nước ngoài, mà đối tượng chính là con người.

- Người sử dụng lao động nước ngoài: ở đây là chính phủ nước ngoài, cơ quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động trong nước.

- Hàng hoá sức lao động nội địa: muốn nói tới lực lượng lao động trong nước sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao động nước ngoài.

- Hoạt động trao đổi: Hoạt động này thể hiện ở chỗ, người nước ngoài sẽ dùng tiền của họ để mua sức lao động từ những người lao động, họ sẽ yêu cầu những người lao động mà họ trả công phải thực hiện một công việc nào đó theo ý muốn của mình (điều này 2 bên thỏa thuận với nhau). Còn người lao động trong nước sẽ được nhận về một khoản tiền nhất định dưới hình thức tiền lương từ việc bán sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất định như trong hợp đồng kinh tế đã ký kết.

Nhưng hoạt động trao đổi sức lao động này có một điểm đặc biệt đáng lưu ý là: quan hệ sẽ không thể chấm dứt ngay được vì sức lao động không thể tách rời người lao động. Quan hệ này khởi đầu cho một quan hệ mới, chính là quan hệ lao động. Và quan hệ lao động sẽ chỉ thực sự chấm dứt khi hợp đồng lao động ký kết giữa hai bên hết hiệu lực hoặc bị xoá bỏ hiệu lực theo thoả thuận của hai bên.

Trên thế giới, hầu hết các nước đều tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động kể cả các nước kém phát triển lẫn các nước kém phát triển. Như tại các nước phát triển, họ sẽ xuất khẩu những lao động có trình độ chuyên môn cao, còn những nước kém phát triển hơn thì sẽ xuất khẩu những lao động trình độ lao động thấp hơn để giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong nước, giúp cải thiện đời sống cho gia đình người lao động.

Hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta chủ yếu diễn ra theo 2 hình thức sau:

a. Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bao gồm: Đi theo Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nhà nước. Hợp tác lao động và chuyên gia; Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động; Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức nước ngoài.

b. Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức các tổ chức kinh tế của Việt Nam cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam bao gồm: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; tổ chức, cơ quan ngoại giao, văn phòng đại diện…của nước ngoài đặt tại Việt Nam.


1.3.1.2.Những đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động


- Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế: Bởi vì, nó nhằm thực hiện chức năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng thời để thỏa mãn lợi ích kinh tế của người lao động đi làm việc ở nước ngoài, góp phần tăng thêm nguồn ngân sách của Nhà nước.

- Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội: Nói xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với các chính sách xã hội. Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như đã cam kết trong hợp đồng lao động, cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng ở nước ngoài và trở về nước.

- Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ động tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động:

Nếu như trước đây Nhà nước làm thay cho các tổ chức kinh tế về hoạt động xuất khẩu lao động. Ngày nay, trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức xuất khẩu lao động phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Như vậy, các hiệp định, các thoả thuận song phương mà Chính phủ ký kết chỉ mang tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của nhà nước ở tầm vĩ mô.

- Xuất khẩu lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt: Tính gay gắt trong cạnh tranh của xuất khẩu lao động xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu. Một là, xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm, do vậy, đã buộc các nước xuất khẩu lao động phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Hai là, xuất khẩu lao động đang diễn ra trong môi trường suy giảm kinh tế toàn cầu. Điều này hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động và chuyên gia nước ngoài .

- Xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động: Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ mà người lao động gởi về các khoản thuế, lợi ích của các tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu là các loại phí giải quyết việc làm ngoài nước, còn lợi ích của người lao động là khoản thu nhập thường là cao hơn nhiều so với lao động ở trong nước. Do vậy, các chế độ chính sách của Nhà nước phải tính toán sao cho đảm bảo được sự hài hoà lợi ích của các bên, trong đó phải chú ý đến lợi ích trực tiếp cuả người lao động.

-Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi: nhận thấy rõ được rằng hoạt động xuất khẩu thì phải phụ thuộc vào nhu cầu của các nước có nhu cầu nhập khẩu, do đó sự phân tích về thị trường để xác định được nhu cầu về lao động ở nước ngoài là vô cùng cần thiết, từ đó sẽ xây dựng được những chính sách và chương trình đào tạo lao động tốt hơn , giúp định hướng phù hợp và linh hoạt. Và chỉ khi nào có được sự chuẩn bị tốt thì mới có thể chiếm lĩnh được những thị trường lao động ở ngoài nước và không bị động trước những biến đổi khó lường trong hoạt động này.

1.3.1.3. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu lao động


Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp quan trọng trong việc thu hút lực lượng lao động đang tăng lên và thu ngoại tệ qua việc người lao động chuyển tiền về nước và các lợi ích khác. Những lợi ích này đã thôi thúc các nước xuất khẩu làm cách nào để có thể chiếm lĩnh được thị trường ở nước ngoài, mà điều này phải dựa trên quan hệ cung - cầu về sức lao động. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để hoạt động hiệu quả và sinh lời, còn bên cầu lao động phải tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả của việc nhập khẩu lao động. Hoạt động xuất khẩu lao động luôn đem lại lợi ích kinh tế của cả ba bên: Tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho chính phủ, các tổ chức xuất khẩu lao động thu được lợi ích từ các khoản chi phí dịch vụ xuất khẩu lao động, trong khi đó người lao động có được thu nhập của mình. Vì vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật phải luôn luôn bám sát đặc điểm này của hoạt động xuất khẩu lao động, làm sao để mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số một của mọi chính sách pháp luật về xuất khẩu lao động.

Xuất khẩu lao động còn có tác dụng tích cực trong việc bồi dưỡng nguồn nhân lực vể mặt trình độ, kĩ năng, tác phong và còn tạo điều kiện mở rộng vốn hiểu biết về mọi mặt chẳng hạn: Ngôn ngữ, văn hóa của nước bạn. Trong xu hướng hội nhập ngày nay, xuất khẩu lao động còn có tác dụng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước bạn, theo nguyên tắc bình đẳng, thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Nhà nước.

1.3.2. Các chi tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh

Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chính xác và có cơ sở khoa học, người ta thường sử dụng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm:

- Chỉ tiêu tổng hợp

- Chỉ tiêu chi tiết

Từ đó vận dụng các phương pháp thích hợp để đánh giá theo hệ thống.

Các chỉ tiêu tổng hợp:

1.3.2.1. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tuyệt đối:

Theo chỉ tiêu này, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ:

Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí

Căn cứ vào số lợi nhuận cụ thể đạt được, doanh nghiệp có thể đánh giá được hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không ?

Uu điểm của phương án này là đơn giản, thuận tiện song cũng có nhiều nhược điểm như: Không cho phép đánh giá được hết chất lượng hoạt động kinh doanh , không so sánh được kết quả giữa các năm, không phản ánh được nguồn lực tiềm tàng, cũng như không phản ánh được bản chất của các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

1.3.2.2. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tương đối:

Hiện nay, chỉ tiêu này được áp dụng rộng rãi trong thực tế. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh được tính theo công thức:


=

Hiệu quả kinh tế

Hao phí các nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đạt được
Kết quả đạt được

Ưu điểm của phương pháp này cho phép phản ánh hiệu quả một cách toàn diện. Với cách phản ánh và cách đánh giá xác định hiệu quả ở dạng phân số hình thành nên một hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả từ mọi góc độ khác nhau từ tổng quát tới chi tiết



Các chỉ tiêu chi tiết:

Việc sử dụng các chi tiêu chi tiết sẽ khắc phục những nhược điểm của chi tiêu tổng hợp, các chỉ tiêu này tạo điều kiện nghiên cứu toàn diện, phân tích sự ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực của các nhân tố tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống chỉ tiêu này được xét dưới các góc độ khác nhau dưới đây:



Nhóm 1: Một số chỉ tiêu liên quan đến tỷ suất lợi nhuận:

Lợi nhuận tuyệt đối có thể không phản ánh đúng mức độ hiệu quả của sản xuất kinh doanh vì chỉ tiêu này không chỉ chịu sự tác động của bản thân chất lượng công tác của doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng của qui mô sản xuất của doanh nghiệp.Vì vậy, để đánh giá đúng đắn kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.



+ Tỷ suất lợi nhuận trên Tổng doanh thu được tính như sau:

T
x 100



=
ỷ suất lợi nhuận trên Lợi nhuận sau thuế

doanh thu thuần Doanh thu thuần

Chỉ tiêu này phản ảnh trong 100 đồng doanh thu mà công ty thực hiện trong kỳ có bao nhiêu đồng là lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận sau thuế.

+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản được tính bằng công thức:

T
x 100



=
ỷ suất lợi nhuận trên Lợi nhuận sau thuế

tổng tài sản Tổng tài sản

Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng giá trị tài sản doanh nghiệp đã huy động có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu được tính bằng công thức:

T
x 100



=
ỷ suất lợi nhuận trên Lợi nhuận sau thuế

vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu được đầu tư sau 1 năm sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

Nhóm 2: Năng lực sản xuất của các yếu tố đầu vào cơ bản:

+ Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụnglao động được tính bằng công thức:


=


Sức sản xuất của lao động
Doanh thu cung cấp dịch vụ

Tổng số lao động bình quân

Chỉ tiêu này cho biết: Cứ 1 lao động thì tạo ra bao nhiêu doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng lao động tốt và ngược lại.

+ Sức sản xuất của vốn cố định:


=


Sức sản xuất của vốn cố định
Doanh thu thuần

Vốn cố định bình quân

Trong đó: Vốn cố định bình quân = 1/2 (vốn cố định đầu kì + vốn cố định cuối kì), chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng vốn cố định mà doanh nghiệp bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần; chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định cao (tức 1 bộ phận của vốn cố định được dịch chuyển nhanh vào giá trị sản phẩm và sớm hoàn thành kỳ luân chuyển của vốn cố định và ngược lại.)

+ Sức sản xuất của vốn lưu động:


=
Sức sản xuất của vốn Doanh thu thuần

lưu động Vốn lưu động

Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng vốn lưu động mà doanh nghiệp sử dụng thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần; chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao.



Nhóm 3: Suất hao phí các yếu tố cơ bản:

Các chỉ tiêu này được tính bằng cách nghịch đảo của năng lực sản xuất của các yếu tố cơ bản.



+
Tỷ suất hao phí của lao động so với doanh thu
Tỷ suất hao phí tổng số lao động bình quân so với doanh thu:


=
Lao động bình quân

Doanh thu thuần

Chỉ tiêu này cho biết, để thu được 1đ doanh thu thì hao phí bao nhiêu lao động, chỉ tiêu này càng thấp càng tốt.



Nhóm 4:Phân tích, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp:

Phân tích tình hình tài chính cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại các năm từ 2011 - 2015 và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được trong từng năm của giai đoạn này, từ đó giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lợi và triển vọng của doanh nghiệp.

Ta xác định các chỉ tiêu tài chính cơ bản từ đó so sánh cuối kì với đầu kì hoặc năm sau với năm trước để thấy được tình hình tăng, giảm của mỗi chỉ tiêu và ý nghĩa của mỗi chỉ tiêu tác động tới tình hình tài chính của doanh nghiệp.

- Các chỉ tiêu tài chính bao gồm:

+ Tỷ suất tự tài trợ:


x 100



=

Tỷ suất tự tài trợ
Vốn chủ sở hữu

Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp thì vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu.

+ Hệ số thanh toán nhanh:


=


Hệ số thanh toán nhanh
Vốn bằng tiền và các khoản tương đương tiền

Nợ ngắn hạn

Nếu tỷ số này bằng 1 chứng tỏ tài sản trong ngắn hạn của doanh nghiệp vẫn đủ trang trải các khoản nợ đến hạn.

Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ.



+ Hệ số thanh toán bình thường:


=


Hệ số thanh toán bình thường
Tổng tài sản

Nợ phải trả

Tổng tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn; Nợ phải trả thông thường bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Hệ số thanh toán bình thường là thước đo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

+ Hệ số lợi nhuận so với tài sản:


=


Hệ số lợi nhuận so với tài sản
Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản

Đây là một chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của 1 đồng vốn đầu tư; tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp và phạm vi so sánh để lựa chọn lợi nhuận trước thuế hay sau thuế để so sánh với tổng tài sản.

+ Hệ số đầu tư tài sản dài hạn:


Hệ số đầu tư tài sản dài hạn

=

Vốn chủ sở hữu + nợ dài hạn

Tài sản dài hạn

Hệ số này cho biết tài sản dài hạn của doanh nghiệp được đầu tư bằng vốn chủ sở hữu và vay dài hạn là bao nhiêu.

CHƯƠNG 2:

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG HÀNG HẢI VINALINES




Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương