Nhằm tương thích với tốc độ truyền dữ liệu thấp của các đường liên kết vô tuyến,
IMS bổ sung cơ chế nén báo hiệu nhằm tăng hiệu quả của quá trình truyền thông báo
hiệu và được thực hiện thông qua SigComp. SigComp là một cơ chế mà các giao thức
lớp ứng dụng dùng để nén bản tin trước khi gửi vào mạng. Nó không chỉ cung cấp
phương thức giảm thiểu kích thước bản tin SIP mà còn có những chức năng giải nén cho
Tiểu luận: Tìm hiểu giao thức SIP trong IMS
Nhóm 7_Lớp D11VT1
Trang 41
một phạm vi rộng lớn các thuật toán nén. Cơ chế nén SigComp được xem như một lớp
nằm giữa SIP và giao thức lớp truyền tải. Về mặt kiến trúc SigComp được chia làm năm
thực thể:
Bộ điều phối nén: Đây là giao diện giữa ứng dụng và hệ thống SigComp.
Nó sẽ yêu cầu một bộ nén được chỉ thị bởi ứng dụng thông qua một nhận dạng
nhóm. Bộ điều phối nén sẽ gửi trả lại các bản tin đã được nén đến đích của
chúng.
Bộ điều phối giải nén: Là giao diện giữa hệ thống SigComp và ứng dụng
tương ứng. Nó yêu cầu UDVM thực hiện giải nén bản tin. Sau đó nó gửi bản
tin đã được giải nén đến phần ứng dụng. Nếu ứng dụng đó yêu cầu bộ giải nén
duy trì trạng thái bản tin nó sẽ gửi trả lại một nhận dạng tương ứng.
Bộ nén: Đây là thực thể thực hiện nén bản tin ứng dụng. Nó sử dụng một
nhận dạng nhóm tương ứng. Các bản tin đã được nén được gửi đến bộ điều
phối nén.
UDVM: là thiết bị ảo giải nén tổng thể (vạn năng) UDVM (Universal
Decompressor Virtual Machine). Nó cung cấp các chức năng giải nén. Khi thu
nhận một bản tin SigComp, bản tin này được lưu trong bộ nhớ giải nén. Các
mã byte và từ điển nén được lưu tại thực thể giải nén sẽ được nạp cho UDVM
để UDVM thực hiện giải nén. Sau khi bản tin đó được giải nén, thông tin mà
nó lưu trữ được sử dụng để cập nhật từ điển và lưu lại thành một trạng thái
mới.
Bộ xử lý trạng thái: Lưu trữ thông tin về trạng thái các bản tin SigComp.
Ứng dụng SIP có thể nhóm các bản tin có liên quan với nhau lại. Ví dụ các bản
tin thuộc cùng hội thoại hoặc có cùng địa chỉ node kế tiếp. Ứng dụng SIP sẽ định vị bộ
nén cho mỗi một nhóm và lưu lại thông tin trạng thái tương ứng. Nó cũng xác định khi
nào thì một nhóm này được tạo ra hoặc loại bỏ. Một nhóm bản tin được xác định bởi
một nhận dạng nhóm tương ứng. Ứng dụng cũng chịu trách nhiệm xác định nhận dạng
cho bộ giải nén. Khi nó thu nhận được một bản tin đã được giải nén nó sẽ xác định nhận
dạng nhóm tương ứng cho bản tin và cung cấp cho hệ thống SigComp.
Trong IMS thực thể thực hiện nén và giải nén bản tin đến và đi từ đầu cuối là
PCSCF. Bản tin SIP được nén bởi SigComp trong UE gửi qua giao diện vô tuyến, trạm
Tiểu luận: Tìm hiểu giao thức SIP trong IMS
Nhóm 7_Lớp D11VT1
Trang 42
gốc BS, bộ điều khiển mạng vô tuyến RNC của mạng truy nhập vô tuyến mặt đất
UTRAN. Từ UTRAN nó sẽ được gửi qua node SGSN và GGSN để tới P-CSCF là nơi
mà các bản tin SigComp được giải nén. Từ P-CSCF bản tin SIP được gửi đi không cần
nén. Trong pha đăng ký thiết bị người dùng và chức năng P-CSCF thông báo cho nhau
mong muốn thực hiện nén bản tin và khả năng của mình như kích thước bộ nhớ, năng
lực xử lý, trạng thái và các lệnh nén. Khi UE hoặc P-CSCF muốn gửi một bản tin SIP
được nén nó phải gửi bản tin đến bộ điều phối nén. Bộđiều phối nén gửi bản tin đến bộ
nén, tìm trạng thái nén cần thiết, nhận dạng nhóm và sử dụng một thuật toán nén để mã
hóa bản tin. Cuối cùng bộ điều phối nén gửi bản tin đã được nén đến lớp truyền tải để
phân phối đến P-CSCF. Tại P-CSCF khi bộ điều phối giải nén nhận được một bản tin,
nó kiểm tra tiền tố của bản tin đó và xác định bản tin đã được nén và gửi đến UDVM.
UDVM truy vấn bộ quản lý trạng thái để nhận lấy trạng thái tương ứng cho giải nén bản
tin. Sau khi giải nén UDVM sẽ gửi trả bản tin lại bộ điều phối để gửi đến phần ứng dụng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: