Học viện tư pháP


BÀI PHÁT BIỂU CỦA KIỂM SÁT VIÊN



tải về 310.6 Kb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu27.12.2023
Kích310.6 Kb.
#56171
1   2   3   4   5   6   7
Bản sao Diễn án của Hương HS 19 DS - tranh chấp không côn nhận quan hệ vợ chồng

BÀI PHÁT BIỂU CỦA KIỂM SÁT VIÊN





VIỆN KSND TỈNH SƠN LA
VIỆN KSND HUYỆN THUẬN CHÂU

Số: 88/PB-VKS-DS





CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc



Thuận Châu, ngày 19 tháng 09 năm 2016



PHÁT BIỂU
Của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Căn cứ khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014;
Căn cứ Điều 21, Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Hôm nay, Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp không công nhận qua hệ vợ chồng” giữa:
- Nguyên đơn: chị Vũ Thị Quy, sinh năm 1980
Địa chỉ: : Bản Huổi Ái, xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư......- Văn phòng Luật sư/ Công ty Luật.....thuộc đoàn Luật sư........
- Bị đơn: Anh Trần Quang Minh, sinh năm 1972
Địa chỉ: Bản Huổi Ái, xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư......- Văn phòng Luật sư/ Công ty Luật.....thuộc đoàn Luật sư........

  • Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Đức Khiêm.

Địa chỉ: Bản Huổi Ái, xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm hôm nay. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về những nội dung sau:
I. VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:
1.1. Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:
*Về thẩm quyền xử lý vụ án:
Căn cứ Khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự, xác định tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là những tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thì tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Căn cứ điểm a, Khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thì thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án nơi bị đơn cư trú.
Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này theo quy định của pháp luật.
* Về xác định tư cách người tham gia tố tụng:
Xác định đúng tư cách của Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Chưa tuân thủ Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Cụ thể: Tại đơn khởi kiện ngày 02/05/2017, bà Vũ Thị Quy yêu cầu chia tài sản là Quyền sử dụng đất và nhà trên đất. Căn cứ Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất 12/06/2006, thì Quyền sử dụng đất này được cấp cho hộ gia đình ông Trần Quang Minh và bà Vũ Thị Quy nên cần phải xác định, tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận, hộ ông Trần Quang Minh gồm bao nhiêu thành viên. Nguyên đơn yêu cầu chia tài sản thuộc khối tài sản chung của hộ gia đình nhưng Tòa án không tiền hành xác minh số thành viên trong hộ gia đình để đưa những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ gia đình.
* Về việc xác minh, thu thập, giao nhận chứng cứ:
Tòa án nhân dân đã đảm bảo tương đối các quy định về xác minh, thu thập và giao nhận chứng cứ tại các điều 92, 93, 94, 95, 96, 97 BLTTDS.
Tuy nhiên trong hồ sơ Viện Kiểm sát nhận được thì Thẩm phán đã không tiến hành lấy ý kiến nguyện vọng được ở với ai của các cháu. Tính đến thời điểm bà Quy khởi kiện, cháu Trần Quang Bình đã đủ tuổi thành niên và đã có ý kiến về việc ở với ai trong trường hợp ba mẹ không ở chung, còn cháu Trần Thị Linh và cháu Trần Thùy Linh đã trên 7 tuổi, về nguyên tắc, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình 2014 khi có thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn thì phải xem xét nguyện vọng của con trên 7 tuổi.
Về tài sản là Quyền sử dụng đất và nhà trên đất: Căn cứ bản tự khai và biên bản xác minh nguồi gốc đất, thì số tiền mua Quyền sử dụng đất có được là từ nguồn tiền ông Trần Quang Minh bán mảnh đất của cha mẹ ông Minh cho ông. Điều này đã được cả nguyên đơn bà Quy và ông Minh, cũng như mẹ ông Minh thừa nhận. Đất được cấp cho hộ gia đình ông Trần Quang Minh và bà Vũ Thị Quy, Tòa án chưa tiến hành xác minh về thành viên hộ gia đình ông Trần Quang Minh, quá trình tu tạo mảnh đất và xây dựng nhà trên đất, công sức đóng góp của các thành viên trong hộ gia đình, chưa thu thập các lời khai của những người có liên quan.
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Quy thì tài sản các bên đang tranh chấp là Quyền sử dụng đất và nhà trên đất tại Giấy chứng nhận Quyền sử đất đất ngày 12/06/2006 thì diện tích đất tranh chấp là 198m2 (trong đó, đất vườn là 30m2, đất ao là 168m2). Tuy nhiên, tại biên bản thẩm định và biên bản định giá tài sản đều thể hiện diện tích đất tranh chấp là 288,4m2, Tòa án không tiến hành thu thập xác minh nguồn gốc, quá trình hình thành của diện tích đất vượt quá diện tích được cấp giấy chứng nhận mà xác định là tài sản chung của bà Quy và ông Minh để định giá là chưa đúng theo quy định pháp luật.
* Về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải:
Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải phù hợp với quy định tại các Điều 93, 94, 95, Điều 210, 211 BLTTDS 2015.
* Thời hạn chuẩn bị xét xử:
Căn cứ theo điểm a khoản 1 điều 203 BLTTDS thì thời hạn xét xử là 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, trường hợp có gia hạn thì không quá 02 tháng (tối đa là 06 tháng). Theo hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu ra Thông báo về việc thụ lý vụ án số 28/2017/TB-TLVA ngày 09/6/2016 và ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2017/QĐ-TA ngày 04/7/2017, đã đảm bảo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
* Thời hạn gửi QĐXX và hồ sơ cho VKS nghiên cứu:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015.

  1. 2. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa:

Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

  1. Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng:

Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 73 và Điều 74 BLTTDS 2015.
II. Ý KIẾN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
Tại phiên Tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến số vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án như sau:
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 02/05/2017, chị Vũ Thị Quy yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu không công nhận quan hệ vợ chồng, chia con chung, chia tài sản chung với anh Trần Quang Minh.
Về quan hệ vợ chồng: Chị Vũ Thị Quy và anh Trần Quang Minh đều nhất trí rằng năm 1997, hai anh chị có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khoản 2 Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định “Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”. Như vậy, chị Quy anh Minh chung sống với nhau từ năm 1997, đến năm 2003, đủ điều kiện để kết hôn nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, theo quy định trên, chị Quy anh Minh không được pháp luật công nhận là vợ chồng nên không áp dụng quy định Luật hôn nhân gia đình 2014 để giải ly hôn chia tài sản chung vợ chồng.
Về con chung: Trong quá trình sống chung, chị Quy anh Minh có 03 người con chung. Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án, cháu Trần Quang Bình đã thành niên, Điều 20 Bộ luật dân sự 2015 quy định "người thành niên người từ đủ 18 tuổi trở lên có lực hành vì dân đầy đủ trừ trường hợp quy định Điều 22, 23, 24 Bộ luật này". Do đó, cháu Trần Quang Bình có quyền lựa chọn chung sống với bố hoặc mẹ. Đối với cháu Trần Thị Linh và cháu Trần Thùy Linh, thời điểm giải vụ án, các cháu chưa đủ 18 tuổi, thuộc trường hợp người chưa thành niên theo quy định khoản Điều 21 Bộ luật dân 2015 "người chưa thành niên người chưa đủ 18 tuổi". Do đó, Tòa án phải xem xét nguyện vọng của các cháu theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014. Mặc dù quá trình giải quyết, Tòa án không lấy ý kiến nguyện vọng của hai cháu Linh, căn cứ điều kiện của chị Quy và anh Minh, Viện Kiểm sát thấy rằng, anh Minh có tiền án việc buôn bán trái phép chất ma túy, bản thân anh là người nghiện ma túy, do đó, việc giao cháu Trần Thị Linh và cháu Trần Thùy Linh cho anh Minh không đảm bảo phát triển. Mặt khác, sau khi ra tù anh Minh cũng không có công việc ổn định, không tạo được thu nhập đảm bảo nuôi dưỡng được các cháu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét toàn diện điều kiện theo quy định khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” để giao cháu Trần Thị Linh và cháu Trần Thùy Linh cho chị Vũ Thị Quy nuôi dưỡng. Anh Trần Quang Minh có quyền thăm nom, cấp dưỡng cho các cháu theo quy định Điều 82 Luật hôn nhân gia đình 2014.
Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện, chị Quy yêu cầu chia đất nhà đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cấp cho anh Minh chị Quy năm 2006. Căn cứ Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình 2014 “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này". Căn khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình 2014 “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ hợp đồng nam, nữ chung sống với vợ chồng mà không ký kết hôn giải theo thỏa thuận bên; trường hợp thỏa thuận giải theo quy định Bộ luật dân quy định pháp luật có liên quan". Vì chị Quy anh Minh không đăng ký kết hôn theo quy định nên không công nhận quan hệ vợ chồng, do đó, việc phân chia tài sản chung giữa hai người giải theo quy định Bộ luật dân 2015. Xét nguồn gốc đất, nguyên đơn bị đơn đều thừa nhận nguồn gốc đất là do anh Minh dùng số tiền bán mảnh đất cha mẹ cho để mua, cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất vào ngày 16/02/2006 cho hộ gia đình anh Trần Quang Minh chị Vũ Thị Quy. Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, hộ gia đình anh Trần Quang Minh gồm có cha mẹ anh Minh, anh Minh chị Quy. Căn cứ khoản 1 Điều 212 “Tài sản thành viên gia đình sống chung gồm tài sản thành viên đóng góp, tạo lập nên tài sản khác xác lập quyền sở hữu theo quy định luật luật khác có liên quan". Do đó, mảnh đất có Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số AD 740978 cấp ngày 16/02/2006 thuộc quyền sở hữu chung cha mẹ anh Minh, anh Minh và chị Quy. Căn cứ theo quy định khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân 2015 “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung thành viên gia đình phải thực theo phương thức thỏa thuận; Trường hợp không có thỏa thuận áp dụng quy định sở hữu chung theo phần quy định Bộ Luật này". Căn cứ khoản 2 Điều 209 Bộ luật dân sự 2015 "mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền nghĩa vụ tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu trừ trường hợp có thỏa thuận khác".
Do đó, Quyền sử dụng đất chia thành 04 phần, cha mẹ anh Minh, anh Minh, chị Quy, mỗi người hưởng 25 % quyền sử dụng đất nên việc chị Quy yêu cầu chia đất và tài sản trên đất đăc biệt là căn nhà theo biên xác minh bà Bùi Thị Xa (mẹ anh Minh) xác định là do chị Quy tạo lập trong quá trình chung sống khoảng thời gian anh Minh đi tù. Do đó, cần xem xét khối tài sản chung 02 người để chia theo quy định pháp luật. Xét thấy quá trình anh Minh chấp hành án phạt tù tội buôn bán trái phép chất ma túy, chị Quy là người quản lý tu sửa công trình trên đất nên căn cứ theo Khoản 2 Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình 2014 “Việc giải quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp phụ nữ con; công việc nội trợ công việc khác có liên quan để trì sống chung coi lao động có thu nhập” để chia cho chị Quy phần giá trị tài sản đất nhiều hơn anh Minh. Căn cứ biên bản định giá tài sản tranh chấp ngày 25/06/2017 giá trị tài sản đất 78.855.560 đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chia cho bà Quy 2/3 giá trị tài sản đất với số tiền bà Quy hưởng 52.570.373 đồng, ông Minh hưởng 1/3 giá trị tài sản đất với số tiền 26.285.178 đồng. Xét yêu cầu bà Quy việc nhận cả đất và tài sản trên đất, như phân tích trên, đất thuộc quyền sở hữu chung hộ gia đình anh Minh chị Quy. Trường hợp chị Quy muốn nhận cả đất và nhà đất phải có đồng ý hộ gia đình anh Minh và phải hoàn trả giá trị nhà mua lại phần quyền sử dụng đất của thành viên hộ gia đình anh Minh.
Từ những phân tích trên,
- Căn cứ Khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, Khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
- Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 14, Khoản 2 Điều 16 khoản 1 Điều 118 Luật Hôn nhân gia đình 2014.
- Căn cứ Điều 20, khoản 1 Điều 21, Điều 22, 23, 24, khoản 2 Điều 209 khoản 2 Điều 212 Khoản 2, Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo hướng: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn:
- Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị Quy và anh Trần Quang Minh;
- Giao cháu Trần Thị Linh và Trần Thùy Linh cho chị Vũ Thị Quy nuôi dưỡng trực tiếp, anh Trần Quang Minh có quyền nghĩa vụ quy định Điều 82 Luật nhân gia đình 2014. Đối với cháu Trần Quang Bình thành niên nên tôn trọng ý kiến cháu việc sống chung với chị Vũ Thị Quy.
- Không chấp nhận yêu cầu chia Quyền sử dụng đất thửa đất số 23a, tờ đồ số địa Bản Huổi Ái, xã Mường É huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Trường hợp anh Minh, bà Xa, ông Văn đồng ý chia phần giá trị Quyền sử dụng đất cho chị Quy thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ghi nhận thỏa thuận đồng chủ sở hữu.
- Chấp nhận yêu cầu chia tài sản đất số 23a tại địa Bản Huổi Ái, xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, buộc anh Minh có trách nhiệm hoàn trả cho chị Quy số tiền 52.570 373 đồng để anh Minh sử dụng tiếp nhà và công trình khác trên đất.
Án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận.
III. NHỮNG YÊU CẦU, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHÁC PHỤC VI PHẠM TỐ TỤNG Ở GIAI ĐOẠN SƠ THẨM (NẾU CÓ).
Trên đây là ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát.

Nơi nhận:
- Tòa án cùng cấp;
- Lưu: VT, HSKS.

KIỂM SÁT VIÊN
Đã ký

Thái Thị hương



  1. tải về 310.6 Kb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương