Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Biên tập bởi



tải về 1.25 Mb.
Chế độ xem pdf
trang96/99
Chuyển đổi dữ liệu16.05.2022
Kích1.25 Mb.
#51956
1   ...   91   92   93   94   95   96   97   98   99
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Thứ hai: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, do đó số
lượng đảng viên không thể nhiều, tổ chức Đảng phải tinh gọn, điều đó khiến cho Đảng
chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp, của dân, tự mình, Đảng không thể đưa mục tiêu
cách mạng thành hiện thực mà phải thông qua phong trào cách mạng của quần chúng
nhân dân. V.I. Lênin nói: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc riêng
của Đảng Cộng sản - Đảng chỉ là một giọt nước trong đại dương - màlà việc của tất cả
quần chúng lao động”
. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.45, tr. 110-111.
. Đó là lý do Đảng phải luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt động của mình quan điểm
sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phải “lấy dân làm
gốc”. Việc phải “lấy dân làm gốc” quy định Đảng phải thường xuyên thắt chặt mối liên
hệ mật thiết với nhân dân, với dân tộc, làm cho Đảng được nhân dân che chở, giúp đỡ,
tạo điều kiện để Đảng nắm bắt đúng, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đề ra
được đường lối, chủ trương đúng với dân, để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào
cuộc sống. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên không nhiều, song Đảng có chỗ dựa vững
chắc, địa bàn rộng lớn, lực lượng hùng hậu, sức mạnh to lớn.
Thứ ba: Do Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước do Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng, rèn luyện,
nên Đảng có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là hệ thống lý luận khoa học, tinh hoa trí tuệ của nhân loại và của dân tộc Việt Nam
giúp Đảng có khả năng đề ra được đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn, phản ánh
đúng quy luật phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng như của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa có tính nguyên tắc, không chệch hướng, vừa linh hoạt
phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước...
- Về thực tiễn, bài học này cũng đã được lịch sử của Đảng và cách mạng Việt Nam
chứng minh trên thực tế.
Trước năm 1930, khi cuộc đấu tranh của dân tộc ta do các tổ chức, cá nhân đại biểu cho
giai cấp phong kiến địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản lãnh đạo, dù đã diễn ra liên
tục, anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong
trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi.
Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn được đề ra trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng với nòng cốt là
khối liên minh công nông, quần chúng cách mạng được rèn luyện qua nhiều cuộc tổng
diễn tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực lượng chính trị, vũ trang, căn
215/222


cứ địa hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các thế lực đế quốc thực dân và
tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng xác
định độc lập dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến
lên, kịp thời đưa ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ nước,
thực hiện đoàn kết dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn cân treo
sợi tóc”.
Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của chúng lên
toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên kháng
chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân dân, kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng đã từng
bước lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau cuộc tiến
công chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế giới và
trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ tìm tòi
và cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược chung
sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau
ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền Nam,
hòa bình thống nhất Tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa Xuân 1975.
Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng vội nên
kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ năm 1986, với đường lối đổi mới được
đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có những bước
chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó khăn, chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực được tăng cường, vị
thế quốc tế được nâng cao.
Hiện nay, để bảo đảm cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức chú trọng
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, bảo đảm
cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Đại hội lần thứ X của Đảng
nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 130.
216/222


; phải “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân
và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Xây dựng
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức
lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"
. Sđd, tr. 279.
, coi đó là "đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta".
Những bài học lịch sử quan trọng nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với cơ sở khoa
học đúng đắn, đã được lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử của Đảng kiểm nghiệm,
những bài học đó có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối với Đảng
và nhân dân ta, nhất là trong thời điểm hiện nay.
217/222



tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   91   92   93   94   95   96   97   98   99




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương