Đây là bản chép lại lời giảng của giáo sư Stephen Stearns trên lớp. Bạn có thể xem toàn bộ bài giảng này bằng cách đến



tải về 135.34 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích135.34 Kb.
#31942
  1   2   3


Đây là bản chép lại lời giảng của giáo sư Stephen Stearns trên lớp. Bạn có thể xem toàn bộ bài giảng này bằng cách đến http://www.mientayvn.com > Học liệu mở cập nhật> Đại học Yale > Các nguyên lí tiến hóa, sinh thái học và tập tính > Chương I: Bản chất của tiến hóa, chọn lọc, kế thừa và lịch sử.

Principles of Evolution, Ecology and Behavior: Lecture 1 Transcript

Professor Stephen Stearns: Biological evolution has two big ideas. One of them has to do with how the process occurs, and that's called microevolution. It's evolution going on right now. Evolution is going on in your body right now. You've got about 1013th bacteria in each gram of your feces, and they have enough mutations in them to cover the entire bacterial genome. Every time you flush the toilet, you flush an entire new set of information on bacterial genomes down the toilets. It's going on all the time.

Giáo sư Stephen Stearns: Tiến hóa sinh học có hai ý tưởng lớn. Một trong số chúng có liên quan đến việc tiến trình xuất hiện như thế nào, và đó gọi là tiến hóa vi mô. Đó là sự tiến hóa xảy ra ngay bây giờ. Tiến hóa đang xảy ra trong cơ thể của bạn ngay bây giờ. Bạn có khoảng 10 mũ 13 vi khuẩn trong mỗi gam phân của bạn, và chúng còn đột biến đủ để tạo ra toàn bộ hệ gen vi khuẩn. Mỗi khi bạn dội nước xuống nhà vệ sinh, bạn dội hoàn toàn một tập hợp thông tin mới về hệ gen vi khuẩn xuống nhà vệ sinh. Điều đó luôn diễn ra mọi lúc.

Now, the other major theme is macroevolution. This process of microevolution has created a history, and the history also constrains the process. The process has been going on for 3.8 billion years. It has created a history that had unique events in it, and things happened in that history that now constrain further microevolution going on today.

Bây giờ, chủ đề lớn còn lại là tiến hóa vĩ mô. Quá trình tiến hóa vi mô này đã tạo ra một lịch sử, và lịch sử cũng ràng buộc quá trình. Quá trình đã từng diễn ra khoảng 3.8 tỉ năm. Nó đã tạo ra một lịch sử có những sự kiện độc nhất trong nó, và nhiều thứ đã xảy ra trong lịch sử đó đang ràng buộc thêm nữa tiến hóa vi mô xảy ra ngày nay.

That's one of the tricky things about evolution. It has many different scales. My wife always gets frustrated with me. She says, "Well when did that happen?" I say, "Oh not too long ago, only about 20 million years." And, you know, that's what happens when you become an evolutionary biologist, you zoom in and out of deep time a lot. And this process of microevolution is going to be the first thing we examine. It's the nuts and bolts. It's what's really created the patterns. But the patterns of macroevolution are also very important because they record the history of life on the planet and they constrain the current process.

Đó là một trong những thứ tinh tế về sự tiến hóa. Nó có nhiều mức khác nhau. Vợ tôi luôn bị thất vọng với tôi. Cô ấy nói: "Điều đó đã xảy ra khi nào?" Tôi nói, "Cách đây không lâu, chỉ có khoảng 20 triệu năm." Và, bạn đã biết, đó là những gì sẽ xảy ra khi bạn trở thành một nhà sinh vật học tiến hóa, bạn phóng to hoặc thu nhỏ thời gian rất nhiều. Và quá trình tiến hóa vi mô này sẽ là thứ đầu tiên mà chúng ta xem xét. Đó là những chi tiết cơ bản. Đó là những gì thực sự tạo ra các mô hình. Tuy nhiên, các mô hình tiến hóa vĩ mô cũng rất quan trọng bởi vì chúng ghi lại lịch sử của sự sống trên hành tinh này và chúng ràng buộc quá trình hiện tại.

So the evolution part of the course is set up basically with two introductory lectures. Then I'm going to spend six lectures talking about microevolutionary principles. So these are things that you can always return to if you are puzzled about a problem. Then there'll be five lectures on how organisms are designed for reproductive success. This includes cool stuff like sexual selection, mate choice, that kind of stuff. I usually manage to give the sexual selection lecture just about on Valentine's Day.

Vì vậy, phần tiến hóa của khóa học về cơ bản được thiết kế với hai bài giảng nhập môn. Sau đó, tôi sẽ sử dụng sáu bài giảng để nói về nguyên lí tiến hóa vi mô. Vì vậy, đây là những thứ mà bạn luôn có thể quay trở lại nếu bạn đang bối về một vấn đề. Sau đó sẽ có năm bài giảng nói về cách các sinh vật được thiết kế để duy trì nòi giống. Cái này bao gồm những thứ được ưa thích như chọn lọc giới tính, các thứ tương tự vậy. Tôi thường sắp xếp để giảng bài sự chọn lọc giới tính gần ngày Valentine.

Then we'll do macroevolutionary principles. This has to do both with speciation, how new species form, and with how biologists now analyze the tree of life to try to understand and infer the history of life on the planet. Then we'll take a look at that history, looking at key events--and this includes both fossils and the diversity of organisms--and some abstract organizing principles about life. So all of those are part of how we can analyze the history of life on the planet.

Sau đó, chúng ta nghiên cứu các nguyên lí tiến hóa vĩ mô. Cái này có liên quan đến sự hình thành loài, cách thức một loài mới hình thành, và cách thức các nhà sinh học phân tích cây đời sống để cố gắng hiểu và suy luận về lịch sử của sự sống trên hành tinh. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét lịch sử lúc đó, xét các sự kiện quan trọng - và điều này bao gồm cả hóa thạch và sự đa dạng của các sinh vật - và một số nguyên tắc tổ chức trừu tượng về cuộc sống. Vì vậy, tất cả những cái này là một phần của cách thức để chúng ta có thể phân tích lịch sử của sự sống trên hành tinh.

And then, just before Spring Break, we will integrate micro and macroevolution. We'll do it in two different ways. We'll do it with co-evolution, where micro and macro come together, and we'll also do it with evolutionary medicine, where both kinds of thinking are necessary really to understand disease and the design of the human body.

Và sau đó, ngay trước kì nghỉ mùa xuân, chúng ta sẽ hợp nhất tiến hóa vi mô và vĩ mô. Chúng ta sẽ làm theo hai cách khác nhau. Chúng ta sẽ thực hiện nó với đồng tiến hóa, ở đó vi mô và vĩ mô gặp nhau, và chúng ta cũng sẽ làm điều đó với y học tiến hóa, ở đó cả hai loại suy nghĩ là thực sự cần thiết để hiểu được bệnh tật và thiết kế cơ thể con người.

So where did this idea of evolution come from? Well, there are always ideas. You can go back to Aristotle and find elements of evolutionary thought in Aristotle. But really it's a nineteenth century idea, and in order to see how it developed let's go back to about 1790 or 1800; so at the end of the Century of the Enlightenment.

Vậy ý tưởng tiến hóa này đến từ đâu? Vâng, luôn luôn có những ý tưởng. Bạn có thể quay về Aristotle và tìm thấy các yếu tố của tư tưởng tiến hóa trong Aristotle. Nhưng thực sự đó là một ý tưởng thế kỷ XIX, và để thấy cách nó đã phát triển như thế nào chúng ta quay về khoảng năm 1790 hay 1800; vâng cuối Thế kỷ Khai sáng.

At that point, if you were to ask a well-educated person living in a Western culture how old the world is, they would say, "Oh thousands of years." And if you were to ask them, "Well, where did all these species on the planet come from?" they would say they were all created just the way they look now and they've never changed. And if you asked them, "Have there ever been any species that went extinct?" they would say, "No, everything that was created is still alive and can be found somewhere on the planet."

Vào thời điểm đó, nếu bạn hỏi một người được giáo dục tốt sống trong một nền văn hóa phương Tây thế giới bao nhiêu tuổi tuổi, họ sẽ nói: "Oh hàng ngàn năm." Và nếu bạn hỏi họ, "Vâng, tất cả các loài trên hành tinh đến từ đâu?" họ sẽ nói rằng tất cả chúng được tạo ra giống như chúng bây giờ và chúng không bao giờ thay đổi. Và nếu bạn hỏi họ, "Có loài nào đã từng bị tuyệt chủng chưa?" họ sẽ nói: "Không, tất cả mọi thứ được tạo ra vẫn còn sống và có thể tìm thấy chúng ở mọi nơi trên hành tinh."

So when Alexander von Humboldt, who was certainly a creature of The Enlightenment, sets out to explore South America, he thinks that he might encounter some of those strange fossils, that the French have been turning up in the Paris Basin, on top of Tepuis in Venezuela. So he really thought that there was a lost world. Of course, Arthur Conan Doyle later wrote a novel about that. But these guys actually thought, "Hey, I go to Venezuela or I go to the Congo, I might meet a brontosaurus." That was what they thought at that time.

Vì vậy, khi Alexander von Humboldt, tất nhiên là người của Thời Kì Khai Sáng, bắt đầu lên đường để khám phá Nam Mỹ, ông ta nghĩ rằng ông có thể gặp một số những hóa thạch kỳ lạ này, rằng người Pháp đang chuyển lòng chảo Paris, trên đỉnh của Tepuis tại Venezuela. Vì vậy, ông thực sự nghĩ rằng có một thế giới bị mất. Tất nhiên, Arthur Conan Doyle sau đó đã viết một cuốn tiểu thuyết về điều đó. Nhưng những kẻ này thực sự nghĩ rằng, "Hey, tôi đi đến Venezuela hoặc tôi đi đến Congo, tôi có thể gặp khủng long." Đó là những gì họ nghĩ tại thời điểm đó.

They thought that adaptations were produced by divine intervention. They did not think that there was a natural process that could produce anything that was so exquisitely designed as your eye. We now know that your eye is in fact very badly designed, but it looked pretty good to them. Anybody here know why the eye is badly designed? What's wrong with your eye?

Họ nghĩ rằng sự thích nghi được tạo ra bởi sự can thiệp của thần thánh. Họ không nghĩ rằng có một quá trình tự nhiên nào đó có thể tạo ra cái gì đó được thiết kế sắc sảo giống như mắt của bạn. Chúng ta biết rằng mắt của bạn thực tế được thiết kế rất tồi, nhưng nó có vẻ khá tốt đối với họ. Có ai ở đây biết mắt được thiết kế tồi ở chổ nào không? Có gì không ổn với mắt của bạn?



Student: The blind spot.

Sinh viên: Điểm mù.



Professor Stephen Stearns: It's got a blind spot and--?

Giáo sư Stephen Stearns: Nó có một điểm mù và -?



Student: [Inaudible]

Professor Stephen Stearns: It's got--the nerves and the blood vessels are in front of the retina. The light has to go through the nerves and the blood vessels, to get to the retina. The octopus has a much better eye.

Giáo sư Stephen Stearns: Nó có - những dây thần kinh và mạch máu ở phía trước võng mạc. Ánh sáng phải đi qua những dây thần kinh và mạch máu, để đến võng mạc. Bạch tuộc có một mắt tốt hơn nhiều.

Okay, now by the time that Darwin published his book in 1859, people thought that the world is very, very old; how old they weren't sure. We now know about four-a-half billion, but at that point, based on the rate of erosion of mountains and on the saltiness of the ocean, assuming that the ocean had been accumulating salt continuously, and that it hadn't been getting buried anywhere, which it does, people thought hundreds of millions of years. They weren't yet in the billions range, but they thought hundreds of millions.

Vâng, vào lúc đó Darwin đã xuất bản cuốn sách của mình vào năm 1859, người ta cho rằng thế giới này là rất, rất cũ; bao nhiêu tuổi họ không biết chắc. Bây giờ họ biết khoảng bốn tỉ rưỡi năm, nhưng tại thời điểm này, dựa trên tốc độ xói mòn của núi và tính mặn của đại dương, giả sử rằng các đại dương đã được tích lũy muối liên tục, và nó đã không bị chôn vùi bất cứ đâu, điều mà nó làm, người ta nghĩ rằng hàng trăm triệu năm. Chúng chưa đạt mức hàng tỉ , nhưng họ nghĩ rằng hàng trăm triệu.

They knew that fossils probably represent extinct species. That was Cuvier's contribution. He did it for mammal fossils in the Paris Basin. Geoffrey Saint-Hilaire had had a big debate with Cuvier about homology, and that was in 1830. By the way, it was one that many people throughout Europe followed very closely--this was a very, very key intellectual topic at the time--and it was about homology. Basically it was about the idea that Geoffrey Saint-Hillaire had had that if my hand has five fingers then--and a bat's wing has five fingers and the fin of a porpoise has five fingers--that that indicates that we all got those five fingers from a common ancestor, and therefore we are related because we had a common ancestor.

Họ biết rằng hóa thạch có thể là đại diện cho các loài tuyệt chủng. Đó cũng là sự đóng góp của Cuvier. Ông ấy đã làm nó cho hóa thạch của động vật có vú trong lòng chảo Paris. Geoffrey Saint-Hilaire đã có một cuộc tranh luận lớn với Cuvier về tính tương đồng, và đó là vào năm 1830. Tiện đâu, nó là cái mà nhiều người ở châu Âu tuân thao rất chặt chẽ - điều này là một chủ đề trí tuệ rất, rất quan trọng vào thời điểm đó - và đó là về sự tương đồng. Về cơ bản nó nói về ý tưởng mà Geoffrey Saint-Hillaire rằng nếu đã có rằng nếu bàn tay tôi có năm ngón thì - và cánh của con dơi có năm ngón tay và vây của cá heo có năm ngón- điều đó chỉ ra rằng tất cả chúng ta có năm ngón này từ một tổ tiên chung, và do đó chúng ta có liên hệ với nhau vì chúng ta có chung tổ tiên.

So you could see that in 1830. That's before Darwin publishes his book. Okay? Then of course we have the idea that adaptations are produced by natural selection; and we owe that to Darwin. And I will run through the process he went through between 1838 and 1859 very briefly. This is one of the most important ideas about the nature of life, and therefore about the human condition, that's ever been published, andI strongly recommend that, if you have a chance, read The Origin of Species. Darwin actually was quite a good writer. It's Victorian prose, so it's a little bit like reading Dickens. But it's good stuff, he has a nice rolling style.

Vì vậy, bạn có thể thấy rằng trong năm 1830. Đó là thời điểm trước khi Darwin xuất bản cuốn sách của mình. Đúng không? Sau đó, tất nhiên chúng tôi có ý tưởng rằng sự thích nghi được tạo ra bằng chọn lọc tự nhiên, và chúng ta có cái đó là nhờ Darwin. Và tôi sẽ chạy qua quá trình mà ông ấy đã đi qua từ năm 1838 đến năm 1859 rất ngắn gọn. Đây là một trong những ý tưởng quan trọng nhất về bản chất của cuộc sống, và vì vậy về nguồn gốc của con người, điều đó đã từng được công bố, và tôi nhấn mạnh rằng, nếu bạn có cơ hội, hãy đọc The Origin of Species (Nguồn gốc của các loài). Darwin thực sự là người viết tốt. Đó là văn xuôi Victoria, vì vậy nó hơi giống với đọc Dickens. Nhưng đó là thứ tốt, ông ấy có một phong cách tốt.

How did he come to it? Well Darwin was a med school dropout. Went to Edinburgh, didn't like med school; loved beetles and became passionate enough as a naturalist to become known, as a 22-year-old young man, as a guy who might be a good fellow to have on an expedition. And the British Admiralty was sending Fitzroy around the world to do nautical charts and Darwin got on the ship.

Làm thế nào ông ta đạt đến nó? Vâng Darwin là một người bỏ học trường y giữa chừng. Đến Edinburgh, không thích học trường y; thích bọ cánh cứng và đủ đam mê để trở thành một nhà tự nhiên học được biết đến, như một chàng trai trẻ 22 tuổi, như là một người có thể trở thành bạn tốt trong các cuộc thám hiểm. Và Hải quân Anh đã gửi Fitzroy trên khắp thế giới để làm biểu đồ hải lý và Darwin lên tàu.

So at an age not very much greater, or perhaps even a bit younger than some of you, Darwin sets off. He's 22 years old. He wants to know how species form. He has set himself that goal. So he's ambitious. He's set a clear goal. The goal is to solve one of the most pressing problems that biology has at that time: where do species come from?

Vì vậy, ở một độ tuổi không lớn lắm, hoặc thậm chí nhỏ hơn một chút so với các bạn, Darwin bắt đầu lên đường. Ông ấy 22 tuổi. Ông ấy muốn biết các loài hình thành như thế nào. Ông đã tự đặt ra cho mình mục tiêu đó. Vì vậy, ông ấy có nhiều tham vọng. Ông ta đặt ra mục tiêu rõ ràng. Mục đích là để giải quyết một trong những vấn đề cáp bách nhất của sinh học lúc đó: các loài đến từ đâu?

Now the stimulus that he has is in part from Charles Lyell, the geologist, who had discovered deep time, and that convinced Darwin that there would've been enough time. He stops in Argentina. In the banks of a river in Argentina he can see giant fossil armadillos, and then right on top of that same bank he can see the current armadillos walking around, up on top of the bank. There they are; the live ones are right above the fossil ones. They look the same but--I mean, they look similar--but they're not the same. So there's some connection there.

Lúc này động lực thúc đẩy ông ấy một phần là từ Charles Lyell, nhà địa chất, người đã phát hiện thời gian sâu, và thuyết phục Darwin rằng sẽ có đủ thời gian. Ông ấy dừng ở Argentina. Trên các bờ sông ở Argentina, ông có thể thấy những con cừu trư hóa thạch khổng lồ, và sau đó ngay ở trên của cùng bờ sông đó ông ta thấy những con cừu trư đang đi, lên phía trên bờ sông. Đó; những con còn sống ở ngay trên những con hóa thạch. Chúng trông giống nhau, nhưng – Ý tôi là, chúng trông giống hệt nhau - nhưng chúng không giống nhau. Vì vậy, có một số sự kết nối ở đó.

He gets on a horse in Chile and he rides up into the Andes and he sees marine fossils lifted thousands of feet above sea level; clearly some dynamic process is going on that had lifted those marine fossils up. He doesn't know about continental drift yet--right?--but there the fossils are.

Ông ấy trèo lên ngựa ở Chi lê và cưỡi nó lên Andes và ông ta thấy các hóa thạch biển được nâng hàng ngàn phút trên mực nước biển; rõ ràng một số quá trình động học diễn ra đã nâng các hóa thạch biển này lên. Ông ta không biết về sự trôi giạt của các lục địa - - đúng không? Nhưng đấy hóa thạch đấy.

In the harbor at Valparaiso he sees the effects of an earthquake that had happened just before they arrived. It was a big one. It was probably as large as the earthquake that recently caused the big tsunami in Indonesia--so it was probably an 8.5, 8.6 earthquake--and it had caused an uplift in the harbor of maybe 50 feet. So he began to see the world as dynamic. Things hadn't always been the way they are.

Trong cảng tại Valparaiso ông thấy ảnh hưởng của một trận động đất đã xảy ra ngay trước khi họ đến. Đó là một trận động đất mạnh. Có lẽ lớn như trận động đất gần đây đã gây ra sóng thần tại Indonesia - do đó có lẽ là trận động đất 8,5, 8,6 - và nó đã gây ra một sự nâng lên của cảng khoảng 50 phút. Vì vậy, ông bắt đầu nhìn thế giới động. Mọi thứ luôn luôn thay đổi, không bao giờ giữ nguyên trạng thái ban đầu vốn có của nó.

Then he goes to the Galapagos, and please navigate the Galapagos website and have a look at some of these differences. The thing that Darwin noticed is that the mockingbirds are different on the different islands. If you go to the Galapagos what you'll notice is that if you land on Espanola, the mockingbirds really want your water supply, and they will hop onto your head or your knee to try to get at your water supply. But, in fact, the mockingbirds all look a little bit different on the different islands, and that's what Darwin noticed.

Sau đó, ông ta đi đến Galapagos, và hãy vào trang web Galapagos để xem một số sự khác nhau này. Điều mà Darwin nhận thấy là các con chim nhại ở các hòn đảo khác nhau thì khác nhau. Nếu bạn đi đến Galapagos những gì bạn nhận thấy là nếu bạn ghé vào Espanola, các con chim nhại thực sự muốn nguồn cung cấp nước của bạn, và chúng sẽ nhảy lên đầu của bạn hoặc đầu gối của bạn để cố nhận được nước. Tuy nhiên, trong thực tế, tất cả các con chim nhại trên các vùng đất khác nhau hơi khác nhau một ít, và đó là những gì Darwin nhận thấy.

He could also see that that the marine iguanas look a bit different, and the land iguanas look different. Interestingly, he didn't notice the differences in the finches, until he got back to England and gave his collection to the British Museum, and the ornithologists at the British Museum came in and said, "Hey Darwin, do you realize that the finches on these islands are different?" And that was when he began to really see how many differences could accumulate, how rapidly, when you take a migrant from Central America and put it on an isolated archipelago.

Ông ấy cũng có thể thấy rằng các con giông mào biển trông hơi khác nhau, và các con giông màu đất khác nhau. Điều thú vị là, ông đã không nhận thấy sự khác biệt của các con chim sẻ, cho đến khi ông quay trở lại Anh và đưa bộ sưu tập của mình cho Viện Bảo tàng Anh, và các nhà điểu cầm học đến và nói, "Hey Darwin, ông có nhận ra các con chim sẻ trên các đảo này khác nhau không? " Và đó là khi ông bắt đầu thực sự thấy có nhiều sự khác nhau có thể tích lũy, nhanh như thế nào, khi bạn lấy một chim di trú từ Trung Mỹ và đặt nó trên một quần đảo bị cô lập.

So he goes back to London. He's been on board ship for about four years. He has a problem with seasickness. He never again sets foot on a ship. He doesn't want to go near the water after being four years on this ship. He had a few issues with the captain too, Fitzroy, but mainly it was that he had a very bad upset stomach onboard the Beagle.

Vì vậy, ông ta quay lại London. Ông ấy đã ở trên tàu khoảng bốn năm. Ông có vấn đề với bệnh say sóng. Ông không bao giờ đặt chân lên tàu lần nữa. Ông không muốn đến gần nước sau khi đã ở bốn năm trên tàu. Ông cũng có vài vấn đề tranh cãi với thuyền trưởng nữa, Fitzroy, nhưng chủ yếu là ông hay bị những cơn đau bụng rất tồi tệ trên tàu Beagle.

He reads the Reverend Malthus on population growth. Malthus's book had come out in 1798. Malthus said basically that populations grow exponentially but agriculture grows linearly. Therefore populations will always outstrip their resource base. This convinced Darwin that all organisms are in a competitive struggle for resources, and that that must inevitably be the case. He saw very clearly how powerful reproduction is at generating exponential population growth. We will come back to that in the ecology portion of the course.

Ông đọc the Reverend Malthus về sư gia tăng dân số. Sách của Malthus được xuất bản năm 1798. Malthus nói rằng về cơ bản dân số tăng theo hàm mũ, nhưng nông nghiệp phát triển tuyến tính. Vì vậy dân số sẽ luôn luôn vượt xa cơ sở tài nguyên của họ. Điều này làm cho Darwin tin rằng tất cả các sinh vật đang ở trong một cuộc đấu tranh tranh giành các nguồn tài nguyên, và điều đó chắc chắn đúng. Ông thấy rất rõ ràng sự sinh sản mạnh mẽ đang tạo ra sự tăng trưởng dân số theo hàm mũ như thế nào. Chúng ta sẽ quay lại điều đó trong phần sinh thái học của khóa học.

And we now know that organisms are in competition really essentially not just over food resources, they are in competition over anything that will get their genes into the next generation. So that can be competition for mates. It can be competition for nesting sites, competition for food; lots of different things. But at any rate this primed Darwin's thinking. So he writes down the idea of natural selection. It comes to him in 1838; it's in his notebooks in 1838.

Và bây giờ chúng ta biết rằng các sinh vật đang trong cuộc cạnh tranh thực sự về cơ bản không chỉ trên nguồn thực phẩm, chúng cạnh tranh trên bất cứ thứ gì để đưa gen của chúng vào thế hệ kế tiếp. Vì vậy, đó có thể là cạnh tranh giao phối. Nó có thể cạnh tranh về khu vực sinh sống, cạnh tranh về thực phẩm; nhiều thứ khác nữa. Nhưng bất luận thế nào, điều này đã khơi màu cho suy nghĩ của Darwin. Vì vậy, ông viết ra ý tưởng về chọn lọc tự nhiên. Nó đến với ông ấy vào năm 1838; nó ở trong vở của ông ấy vào năm 1838.

Basically, I'll run through natural selection in a minute. It's a deceptively simple idea because the mechanism looks so simple, but the consequences are so wide ranging. Darwin recognized what the consequences were. And he didn't publish immediately. He did other things. He went off and he worked five or six years on barnacles. He wrote down lots of ideas about things unrelated to natural selection, and he wasn't really jogged out of this until a letter arrived in 1858 from Alfred Russel Wallace, a young British naturalist who had, in a fit of malarial fever, had the same idea, in Indonesia.

Về cơ bản, lát nữa thôi tôi sẽ nói qua chọn lọc tự nhiên. Đó là một ý tưởng có vẻ đơn giản bởi vì cơ chế trông có vẻ đơn giản, nhưng hệ quả của nó trải trên phạm vi quá rộng. Darwin đã nhận ra được những hệ quả đó là gì. Và ông đã không công bố ngay. Ông đã làm những việc khác. Ông đã bỏ đi và ông làm việc trong năm hay sáu năm với các con hàu. Ông đã viết ra rất nhiều ý tưởng không liên quan đến chọn lọc tự nhiên, và ông ta đã gần như quên lãng nó cho đến một hôm ông nhận được lá thư lúc đó là năm 1858 từ Alfred Russel Wallace, một nhà tự nhiên học người Anh đã có, trong cơn bệnh sốt rét, có cùng một ý tưởng, ở Indonesia.



tải về 135.34 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương