Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 415/bc-ubtvqh13 CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 169.09 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích169.09 Kb.
#31305
  1   2   3


ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI


Số: 415/BC-UBTVQH13




CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc




Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2013



BÁO CÁO

giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật phòng, chống khủng bố

Tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã tiến hành thảo luận về dự án Luật phòng, chống khủng bố. Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan tổng hợp ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH), nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật và gửi xin ý kiến các Đoàn ĐBQH. Trên cơ sở ý kiến của các Đoàn ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. UBTVQH kính trình Quốc hội báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật phòng, chống khủng bố như sau:



1. Về sự cần thiết ban hành Luật

Đa số ý kiến tán thành sự cần thiết ban hành Luật phòng, chống khủng bố. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc, thận trọng khi ban hành Luật này và cần có thời gian dài hơn để tiếp tục nghiên cứu, vì Luật này có liên quan đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, quyền con người, quyền cơ bản của công dân.

UBTVQH xin báo cáo như sau: Trong những năm gần đây, tình hình khủng bố trên thế giới có những diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, tuy chưa xảy ra khủng bố do tổ chức khủng bố quốc tế thực hiện, nhưng đã phát hiện một số âm mưu tiến hành khủng bố của bọn phản động người Việt lưu vong và phát hiện một số đối tượng khủng bố quốc tế làm thủ tục nhập cảnh vào nước ta. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế liên quan đến chống khủng bố(1) và trên thực tế đã tích cực triển khai các hoạt động phòng, chống khủng bố, nhưng chưa có văn bản pháp lý dưới hình thức là một đạo luật để điều chỉnh về lĩnh vực này.

Dự án Luật phòng, chống khủng bố được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ tư. Vì nội dung cơ bản của dự án Luật là những vấn đề nhạy cảm liên quan đến chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và quyền cơ bản của công dân, nên đã được các ĐBQH, các cơ quan thẩm tra và UBTVQH quan tâm nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng trên mọi khía cạnh, bảo đảm các điều kiện để trình Quốc hội xem xét, thông qua nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc phục vụ hoạt động phòng, chống khủng bố và hợp tác quốc tế về phòng, chống khủng bố trong thời điểm hiện nay.

Do đó, UBTVQH xin tiếp tục trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật phòng, chống khủng bố tại kỳ họp thứ năm.

2. Về tên gọi của Luật

Đa số ý kiến tán thành với tên gọi “Luật phòng, chống khủng bố” như dự thảo Luật. Tuy nhiên có ý kiến đề nghị đổi tên thành “Luật phòng và chống khủng bố” hoặc “Luật phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng bố” để phù hợp với các chương, điều trong dự thảo Luật.

UBTVQH thấy rằng, tên gọi “Luật phòng, chống khủng bố” đã được xác định trong Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội và tên gọi này đã được sử dụng trong nhiều văn kiện của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước; đồng thời thống nhất với cách thể hiện tên gọi của nhiều đạo luật khác như Luật phòng, chống ma túy, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật phòng, chống mua bán người, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật phòng, chống rửa tiền... Tuy trong dự thảo Luật có nhiều quy định độc lập về hoạt động phòng, chống tài trợ khủng bố để nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và đáp ứng các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, nhưng tài trợ khủng bố là loại hành vi gắn với khủng bố và phòng, chống tài trợ khủng bố là một bộ phận của hoạt động phòng, chống khủng bố. Như vậy, tên gọi “Luật phòng, chống khủng bố” đã bao hàm cả phòng, chống tài trợ khủng bố. Để thống nhất tên gọi và nội hàm của cụm từ “phòng, chống khủng bố”, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý các điều luật cho phù hợp và bổ sung nội dung giải thích từ ngữ “phòng, chống khủng bố” tại khoản 3 Điều 3 dự thảo Luật, thể hiện rõ hoạt động “phòng, chống khủng bố” bao gồm cả hoạt động phòng ngừa và chống tài trợ khủng bố.

Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ tên gọi như dự thảo Luật do Chính phủ trình.



3. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

- Có ý kiến đề nghị thể hiện nội dung phòng, chống tài trợ khủng bố vào Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của Luật.

Như đã phân tích ở mục 2, hoạt động phòng, chống khủng bố được xác định bao gồm cả hoạt động phòng ngừa, chống tài trợ khủng bố, vì vậy trong Luật này xin được dùng thống nhất cụm từ “phòng, chống khủng bố” để phù hợp với tên gọi của Luật.

- Một số ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích của Việt Nam; có ý kiến đề nghị Luật này chỉ quy định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

UBTVQH thấy rằng, trường hợp tổ chức nước ngoài, người nước ngoài thực hiện hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến lợi ích của Việt Nam thì việc phòng, chống cần phải có sự phối hợp, hợp tác giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với cơ quan hữu quan của nước sở tại trên cơ sở tuân thủ pháp luật quốc gia, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương mà hai nước cùng ký kết hoặc gia nhập, tập quán quốc tế và nhu cầu thực tiễn của Việt Nam, trong đó chủ yếu do cơ quan hữu quan của nước sở tại thực hiện. Nếu quy định nội dung này trong Luật sẽ không khả thi.

Vì vậy, UBTVQH đề nghị không bổ sung đối tượng áp dụng này trong dự thảo Luật; đồng thời tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị chỉnh lý Điều 2 theo hướng Luật này áp dụng đối với công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài, người nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như dự thảo Luật trình Quốc hội.



4. Về bố cục của luật

- Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu sắp xếp lại bố cục của dự thảo Luật cho gọn theo trật tự phù hợp hơn và có điều chỉnh tên một số chương, một số điều luật(2); ý kiến khác đề nghị nhập Chương IV và Chương V.

- Một số ý kiến đề nghị cân nhắc quy định một chương riêng về hợp tác quốc tế trong phòng, chống khủng bố; ý kiến khác đề nghị phải quy định cụ thể hơn nội dung này vì hiện nay đang là vấn đề mang tính toàn cầu.

- Một số ý kiến đề nghị bổ sung một chương hoặc một điều quy định về xử lý hậu quả của khủng bố; một chương hoặc một điều quy định về công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức cảnh giác về phòng, chống khủng bố cho cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân; quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong hoạt động phòng, chống khủng bố.

UBTVQH thấy rằng, bố cục dự thảo Luật do Chính phủ trình cơ bản đã được xây dựng, sắp xếp theo trật tự hợp lý đi từ nguyên tắc chung đến vấn đề cụ thể, từ tổ chức đến hoạt động, từ phòng ngừa đến đấu tranh chống khủng bố và tài trợ khủng bố. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin điều chỉnh bố cục, nội dung của một số chương, điều luật cho phù hợp và gọn hơn(3).

Về vấn đề hợp tác quốc tế, hiện nay tình hình khủng bố quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp và công tác đấu tranh giải quyết là vấn đề mang tính toàn cầu, hoạt động hợp tác quốc tế yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi Luật này phải có một chương riêng để quy định rõ các nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế để tổ chức thực hiện. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ nguyên như cách thể hiện trong dự thảo Luật trình Quốc hội.

Về quy định phòng, chống tài trợ khủng bố tại Chương V dự thảo Luật do Chính phủ trình, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH chuyển nội dung phòng ngừa tài trợ khủng bố ở Chương này vào Chương III (phòng ngừa khủng bố), vì có nội dung giống nhau. Còn hoạt động chống tài trợ khủng bố, tuy là một nội dung của hoạt động chống khủng bố, nhưng có những biện pháp đặc thù, đồng thời nhằm tránh những bất lợi đối với nước ta trong giao dịch tài chính quốc tế theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế về phòng, chống tài trợ khủng bố. Do đó, dự thảo Luật thiết kế một chương riêng về chống tài trợ khủng bố là cần thiết.

Về bổ sung một số điều, khoản theo ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin được chỉnh lý, bổ sung các nội dung liên quan đến xử lý hậu quả khủng bố, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức cảnh giác về phòng, chống khủng bố vào các Điều 9, Điều 10, Điều 46, bổ sung một Điều quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Điều 8), và chuyển vị trí Điều luật quy định về nguyên tắc phòng, chống khủng bố lên trước Điều luật quy định về chính sách phòng, chống khủng bố, tài trợ khủng bố như dự thảo Luật trình Quốc hội.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về các biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi khủng bố, chế tài xử lý hành vi vi phạm điều cấm.

UBTVQH thấy rằng, khủng bố là một loại hành vi nguy hiểm cho xã hội được phòng ngừa và xử lý bằng nhiều biện pháp (trong đó có biện pháp xử lý hình sự và biện pháp xử lý hành chính) tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi. Tuy nhiên, các biện pháp xử lý hình sự, biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi khủng bố được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, Luật này chỉ quy định về tổ chức hoạt động phòng, chống khủng bố mà không quy định về tội phạm, hình phạt và các biện pháp xử lý hành chính. Vì vậy, UBTVQH đề nghị không bổ sung nội dung này trong dự thảo Luật.



5. Về giải thích từ ngữ (Điều 3 dự thảo Luật do Chính phủ trình)

5.1. Giải thích từ ngữ “khủng bố” (khoản 1 Điều 3)

- Đa số ý kiến tán thành với quan điểm của Ủy ban Quốc phòng và An ninh nêu trong Báo cáo thẩm tra(4) là xây dựng khái niệm “khủng bố” mở rộng theo hướng lấy mục đích làm căn cứ xác định và liệt kê các hành vi được coi là hành vi khủng bố bảo đảm yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Một số ý kiến đề nghị không liệt kê lại các hành vi khủng bố đã được quy định trong Bộ luật hình sự mà chỉ viện dẫn; ý kiến khác đề nghị làm rõ chủ thể “tổ chức” trong khái niệm vì theo quy định của Bộ luật hình sự, tổ chức không phải là chủ thể của tội phạm; một số ý kiến đề nghị rà soát các hành vi khủng bố đã được quy định trong Bộ luật hình sự để quy định trong Luật này bảo đảm tính thống nhất và rà soát các hành vi khủng bố được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để nội luật hóa, theo đó không nên có quy định tại điểm e khoản 1 Điều 3 về giải thích từ ngữ.

- Một số ý kiến cho rằng, khủng bố là một loại tội phạm và đề nghị xây dựng khái niệm “khủng bố” trong Luật này phải thống nhất với các hành vi khủng bố đã được quy định trong Bộ luật hình sự, việc quy định như dự thảo Luật do Chính phủ trình là quá rộng. Có ý kiến đề nghị quy định chế tài, hình phạt trong khái niệm khủng bố như quy định của Bộ luật hình sự.

- Một số ý kiến tán thành với giải thích từ ngữ “khủng bố” như dự thảo Luật do Chính phủ trình.

UBTVQH xin báo cáo như sau:

Khái niệm “khủng bố” là nội dung quan trọng chi phối toàn bộ dự thảo Luật và phải bảo đảm các yêu cầu về chính trị, pháp luật, đối ngoại. Luật phòng, chống khủng bố tuy có liên quan trực tiếp đến Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng là một đạo luật điều chỉnh về tổ chức các hoạt động phòng, chống khủng bố, không quy định nguyên tắc xử lý hình sự, tội phạm, hình phạt và các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm khủng bố (những nội dung này đã được Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự điều chỉnh).

Trong Luật này, khái niệm “khủng bố” được xây dựng nhằm phục vụ yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động của các tổ chức, cá nhân khủng bố, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay, đồng thời phù hợp với các quy định của Bộ luật hình sự và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong đó, mục tiêu chủ yếu là nhằm phục vụ công tác phòng ngừa đối với các hành vi khủng bố đã được quy định trong Bộ luật hình sự và các hành vi khủng bố chưa được quy định trong Bộ luật hình sự. Công tác phòng ngừa khủng bố được thực hiện bằng nhiều biện pháp tổng hợp cả về tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội, hành chính, pháp luật... việc xử lý hình sự chỉ là một biện pháp. Do đó, khái niệm “khủng bố” trong Luật này được mở rộng hơn về chủ thể, mục đích và các hành vi so với quy định “tội khủng bố” của Bộ luật hình sự (Luật phòng, chống rửa tiền cũng quy định theo hướng này). Việc quy định đầy đủ, cụ thể các hành vi khủng bố trong Luật này vừa bảo đảm yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị(5), vừa giúp cho mọi tổ chức, cá nhân dễ nhận biết, thuận lợi cho công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và hợp tác quốc tế trong phòng, chống khủng bố.

Với quan niệm nêu trên, chủ thể “tổ chức” tuy không phải là chủ thể của tội phạm, nhưng là đối tượng đấu tranh trong hoạt động phòng, chống khủng bố. Thực tiễn phòng, chống khủng bố đặt ra yêu cầu phải phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa các tổ chức khủng bố hiện hành và các hoạt động nhen nhóm, thành lập tổ chức khủng bố. Trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã và đang đấu tranh kiên quyết đối với các tổ chức được xác định là tổ chức khủng bố. Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg ngày 15/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống khủng bố trong tình hình mới cũng đã chỉ đạo các ngành, các cấp phải xác định và có biện pháp đấu tranh với các tổ chức thực hiện hành vi khủng bố(6). Mặt khác, yêu cầu đấu tranh với các tổ chức khủng bố là một trong những nội dung quan trọng của hợp tác quốc tế về phòng, chống khủng bố. Trong thực tiễn hợp tác quốc tế về phòng, chống khủng bố, tại các Nghị quyết số 1373, Nghị quyết số 1624 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đều quy định về tổ chức khủng bố (7). Vì vậy, Luật này cần thiết phải xác định chủ thể “tổ chức” trong khái niệm “khủng bố” để đáp ứng công tác phòng ngừa và đấu tranh với các tổ chức khủng bố. Việc sử dụng thuật ngữ “tổ chức” trong Luật này không ảnh hưởng đến nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự, vì khi phát hiện tổ chức nào đó hoạt động khủng bố thì có thể áp dụng nhiều biện pháp như biện pháp hành chính hoặc các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa; còn cá nhân trong tổ chức đó thực hiện hành vi khủng bố sẽ bị xử lý bằng các quy định của pháp luật hình sự. Luật phòng, chống rửa tiền (khoản 1 Điều 4) cũng quy định theo hướng này(8).

Việc xây dựng khái niệm “khủng bố” theo hướng lấy mục đích làm căn cứ xác định và liệt kê theo nhóm các hành vi được coi là hành vi khủng bố (trong đó đã nội luật hóa cơ bản các hành vi được coi là khủng bố theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) là hợp lý nhằm phát huy hiệu quả các điều ước quốc tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam và dễ nhận biết để tổ chức hoạt động phòng ngừa là chủ yếu. Tuy nhiên, để bảo đảm cho khái niệm bao quát hết mọi hành vi được coi là khủng bố, kể cả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và sẽ ký kết, gia nhập có thêm hành vi khác cũng được coi là khủng bố thì trong khái niệm này cần giữ lại quy định các hành vi khác được coi là khủng bố theo quy định của các điều ước quốc tế về phòng, chống khủng bố mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên như dự thảo Luật do Chính phủ trình.

Từ những vấn đề trên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin bổ sung, hoàn chỉnh quy định khái niệm “khủng bố” như khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật trình Quốc hội.



5.2. Giải thích từ ngữ “tài trợ khủng bố” (khoản 2)

Một số ý kiến đề nghị thiết kế lại khoản 2 cho dễ hiểu, dễ nhận biết; đề nghị bổ sung các dạng hỗ trợ khác như hỗ trợ tinh thần, kinh nghiệm, công cụ, phương tiện hoặc một số loại vật chất khác cho tổ chức, cá nhân khủng bố; bổ sung một số loại hình thức hỗ trợ khác cho tổ chức, cá nhân khủng bố như hướng dẫn, giúp sức, cung cấp, cho thuê, cho mượn...

UBTVQH thấy rằng, giải thích từ ngữ “tài trợ khủng bố” quy định tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật do Chính phủ trình đã được xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất với các quy định của pháp luật liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó từ “tài sản” đã bao gồm các loại vật chất mà ĐBQH đề nghị bổ sung. Việc quy định hỗ trợ “tiền” bên cạnh hỗ trợ “tài sản” nhằm mục đích nhấn mạnh đến loại tài sản thường được sử dụng để tài trợ khủng bố và cũng thống nhất với quy định tại Điều 230b Bộ luật hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin bổ sung, chỉnh lý các nội dung của khái niệm “tài trợ khủng bố” tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật trình Quốc hội cho gọn và dễ hiểu hơn.

5.3. Giải thích từ ngữ “phòng ngừa khủng bố”, “chống khủng bố” (khoản 3, khoản 4)

Một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc giải thích từ ngữ “phòng ngừa khủng bố” và “chống khủng bố” vì cho rằng đây là những từ ngữ dễ hiểu, được sử dụng phổ biến trong hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung; một số ý kiến khác đề nghị bổ sung, chỉnh sửa, lược bỏ một số từ ngữ cụ thể trong nội dung.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, nghiên cứu một số luật đã được Quốc hội ban hành trong thời gian gần đây (Luật phòng, chống rửa tiền, Luật phòng, chống mua bán người…), UBTVQH cho rằng những từ ngữ này không cần thiết phải được giải thích trong Luật. Do đó, UBTVQH đề nghị bỏ khoản 3, khoản 4 Điều này như dự thảo Luật trình Quốc hội.

6. Về chính sách phòng, chống khủng bố (Điều 4 dự thảo Luật do Chính phủ trình)

- Một số ý kiến đề nghị bổ sung: Chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phòng, chống khủng bố; chính sách đối với người phát hiện hành vi khủng bố và người thân của họ; chính sách bảo vệ người thân thích của người tham gia phòng, chống khủng bố khi có căn cứ cho rằng những người đó bị đe dọa trả thù; chính sách khen thưởng khi cung cấp thông tin về khủng bố; chính sách khoan hồng đối với tổ chức, cá nhân chủ động từ bỏ ý định khủng bố, tài trợ khủng bố; tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện hành vi hoặc trước khi hành vi bị phát giác mà cố gắng ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại, khắc phục hậu quả xảy ra và tự thú, thành khẩn khai báo, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm điều tra, xử lý vụ việc; chính sách xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm, thiếu trách nhiệm trong hoạt động phòng, chống khủng bố; bổ sung vào khoản 3 nhóm chủ thể là viên chức. Một số ý kiến đề nghị quy định rõ hơn chính sách đối với người giúp đỡ lực lượng phòng, chống khủng bố, người trực tiếp tham gia phòng, chống khủng bố nhưng không phải là lực lượng chuyên trách. Có ý kiến cho rằng một số chính sách còn chung chung, chưa rõ ràng. Có ý kiến đề nghị sắp xếp lại thứ tự chính sách bảo đảm tính logic.

UBTVQH cho rằng, các ý kiến nêu trên là xác đáng, xin tiếp thu, bổ sung, chỉnh lý Điều 4 dự thảo Luật do Chính phủ trình và thể hiện lại tại Điều 5 như dự thảo Luật trình Quốc hội.

- Một số ý kiến đề nghị thiết kế lại Điều 4 theo hướng ngắn gọn, bỏ khoản 2, khoản 5 vì không mang tính chính sách.

UBTVQH thấy rằng, nội dung khoản 2, khoản 5 dự thảo Luật do Chính phủ trình là những chính sách cần thiết nhằm động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có các lực lượng trực tiếp tham gia phòng, chống khủng bố. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung khoản 2, khoản 5 dự thảo Luật Chính phủ trình.

7. Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 5 dự thảo Luật do Chính phủ trình)

- Một số ý kiến đề nghị rà soát, bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm như lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống khủng bố để vi phạm pháp luật, tư lợi, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; cung cấp thông tin làm lộ bí mật nhà nước trong hoạt động phòng, chống khủng bố; bảo kê, dung túng cho các hành động khủng bố dưới mọi hình thức; kích động người khác tham gia hoạt động khủng bố và tài trợ khủng bố.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin bổ sung một khoản quy định cấm lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống khủng bố, tài trợ khủng bố để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân như dự thảo Luật trình Quốc hội; một khoản quy định cấm làm lộ thông tin bí mật nhà nước về phòng, chống khủng bố. Riêng hành vi kích động người khác tham gia hoạt động khủng bố, tài trợ khủng bố đã được xác định là một hành vi khủng bố quy định tại khoản 1 Điều 3; hành vi bảo kê, dung túng cho các hành động khủng bố thực chất là đồng phạm khủng bố (theo điểm d khoản 1 Điều 3) và che dấu hành vi khủng bố, đã bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.

- Một số ý kiến đề nghị cân nhắc các hành vị bị nghiêm cấm được quy định tại khoản 4, khoản 5 và ý kiến khác đề nghị bỏ khoản 5; có ý kiến đề nghị bỏ Điều này vì đây là những hành vi cấu thành các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, không cần thiết phải quy định lại trong Luật này.

UBTVQH thấy rằng, các hành vi bị cấm quy định tại Điều này không chỉ là hành vi vi phạm Luật này mà còn vi phạm các quy định của pháp luật liên quan. Tuy nhiên, với vai trò là đạo luật chuyên ngành về phòng, chống khủng bố mang tính đặc thù, đồng thời để bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện thì Luật này cần xác định một số hành vi nghiêm trọng cần nghiêm cấm để bảo đảm tính khả thi và nghiêm minh của các điều luật. Vì vậy, UBTVQH đề nghị cho giữ nội dung Điều này. Riêng khoản 5 không xác định cụ thể hành vi bị cấm nên UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH, đề nghị bỏ khoản 5 Điều này.

8. Về nguyên tắc phòng, chống khủng bố (Điều 6 dự thảo Luật do Chính phủ trình)

- Một số ý kiến đề nghị chỉ quy định những nguyên tắc có tính đặc thù của hoạt động phòng, chống khủng bố; bỏ nguyên tắc quy định tại khoản 1, khoản 2 vì đây là những nguyên tắc chung đối với mọi hoạt động, đã được quy định trong Hiến pháp; ý kiến khác đề nghị đổi vị trí, sắp xếp lại thứ tự hoặc ghép một số nguyên tắc lại thành một khoản; có ý kiến đề nghị không quy định thành khoản riêng mà ghép tất cả các nguyên tắc thành một quy định; có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc ngăn ngừa lợi dụng hợp tác phòng, chống khủng bố làm phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và nguyên tắc nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định tình hình sau khi giải quyết xong khủng bố.

- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “chủ trì phối hợp” tại khoản 1 vì sẽ làm mờ nhạt vai trò của Quân đội nhân dân; đề nghị cân nhắc quy định tuân thủ điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên tại khoản 2 và bổ sung nội dung “bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội”; đề nghị cân nhắc nội dung phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên tại khoản 7.

UBTVQH thấy rằng, nguyên tắc nêu tại khoản 1, khoản 2 là những nguyên tắc rất quan trọng đối với các hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thể hiện mối quan hệ và cơ chế hoạt động giữa các chủ thể Đảng - Nhà nước - xã hội - lực lượng vũ trang, trong đó Công an nhân dân là lực lượng chủ trì đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, nhằm bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống khủng bố. Trong nhiều đạo luật khác thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh cũng quy định rõ các nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho sự vận hành cơ chế trên có hiệu quả thiết thực. Vì vậy, UBTVQH xin giữ nội dung nguyên tắc nêu tại khoản 1 và khoản 2, tuy nhiên tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin chỉnh lý bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời rà soát chuyển khoản 7 Điều này là nguyên tắc hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống khủng bố sang Điều 36, chuyển nguyên tắc quy định tại khoản 5 sang Điều 6 như dự thảo Luật trình Quốc hội; xem xét khoản 6 không phải là nguyên tắc đặc thù của hoạt động phòng, chống khủng bố, do đó đề nghị bỏ khoản 6 Điều này.



Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 169.09 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương