Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh quảng nam độc lập Tự do Hạnh phúc



tải về 54.75 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích54.75 Kb.
#19492


ỦY BAN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỈNH QUẢNG NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Số: 90 /BC-UBND Tam Kỳ, ngày 13 tháng 7 năm 2010


BÁO CÁO

Tình hình tranh chấp đất đai liên quan

đến địa giới hành chính


Trong những năm qua, một số địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam đã xảy ra tình hình tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính (ĐGHC) và có kiến nghị giải quyết những tồn tại vướng mắc liên quan đến ĐGHC; phần lớn là do sau khi xác lập hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính theo Chỉ thị 364 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với đường địa giới hành chính theo lịch sử để lại không trùng khớp, nên từ đó có phát sinh tranh chấp đất đai trong quá trình quản lý lãnh thổ, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra thực tế về ĐGHC ở các địa phương có tranh chấp và đã hiệp thương giải quyết được một số nơi trong và ngoài tỉnh....Tuy nhiên đến nay ở một số nơi vẫn chưa giải quyết dứt điểm được vì qua khảo sát thực tế ĐGHC và đối chiếu hồ sơ, bản đồ ĐGHC được lập theo Chỉ thị 364-CT của Chủ tịch HĐBT, các đoàn kiểm tra nhận thấy đường ĐGHC ngoài thực địa và bộ hồ sơ, bản đồ ĐGHC giữa các xã, huyện, tỉnh có tranh chấp không thể hiện theo biên bản mô tả chung về ĐGHC (gọi là biên bản hiệp thương ban đầu được các bên liên quan xác định và ký chứng thực).

Nguyên nhân xảy ra tranh chấp là do:

- Khi triển khai thực hiện việc lập bộ hồ sơ, bản đồ ĐGHC theo Chỉ thị 364, một số địa phương cấp xã không làm kỹ công tác hiệp thương, cán bộ xã quản lý chưa chặt chẽ, chưa nắm chắc định vị đường ranh giới của địa phương mình và thực tế tình hình cư trú, sản xuất của nhân dân địa phương; vì vậy khi kiểm tra, nghiệm thu không phát hiện sai sót nên đã ký vào hồ sơ 364 để trình cấp trên phê duyệt.

- Đơn vị thi công Xí nghiệp 204 thuộc Cục trắc địa bản đồ thực hiện tác nghiệp Bản đồ và mô tả theo biên bản hiệp thương của các địa phương một số nội dung thiếu chính xác, không khớp với biên bản hiệp thương và thực tế.

- Sau khi bộ hồ sơ, bản đồ ĐGHC được cấp có thẩm quyền cho phép đưa vào quản lý, sử dụng; cán bộ xã không tuyên truyền hướng dẫn cho nhân dân biết về ranh giới của từng địa phương, do đó trong quá trình tổ chức nơi cư trú, sản xuất làm ăn, đặc biệt những năm gần đây kinh tế vườn, rừng, thủy điện phát triển, việc tranh chấp ngày càng phát sinh lớn.

Dưới đây là tổng hợp thực trạng tình hình tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh Quảng Nam với các tỉnh liên quan hiện còn vướng mắc chưa giải quyết được như sau:

I. TÌNH HÌNH ĐƯỜNG ĐGHC GIỮA TỈNH QUẢNG NAM

VỚI CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ LIÊN QUAN
1. Tình hình ĐGHC giữa xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam và xã Đăk Nên, huyện KonPlông, tỉnh Kon Tum

Xã Trà Vinh có 4 thôn, 334 hộ, 1536 khẩu, hầu hết là người dân tộc thiểu số; những năm gần đây, tình hình tư tưởng của nhân dân thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh không yên tâm vì nhân dân xã Đăk Nên, huyện KonPlông, tỉnh Kon Tum dần dần mở rộng địa bàn sản xuất, một số phần tử xấu đã lợi dụng khai thác lâm sản sâu vào địa bàn của nhân dân thôn 3 và 4 xã Trà Vinh đang sản xuất và sinh sống. Trước tình hình trên, các cơ quan chức năng của 2 huyện: Nam Trà My và huyện Kon Plong và 2 xã: Trà Vinh và Đăk Nên đã nhiều lần giải quyết nhưng chưa ổn định được tình hình. Năm 2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam thành lập đoàn công tác kiểm tra mốc giới, địa giới hành chính liên quan đến 2 xã. Qua kiểm tra đã xác định toàn bộ diện tích đất mà nhân dân thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh (184 hộ, 891 khẩu), huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam đang sinh sống và làm ăn nằm trong khu vực thuộc phạm vi quản lý của xã Đăk Nên, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum theo hồ sơ 364.

Để giải quyết vấn đề trên, từ ngày 31/3/2009 đến ngày 2/4/2009, UBND tỉnh Quảng Nam và UBND tỉnh Kon Tum cử 2 Đoàn công tác do lãnh đạo Sở Nội vụ của 2 tỉnh làm Trưởng đoàn cùng với lãnh đạo của 2 huyện Nam Trà My, huyện KonPlong và lãnh đạo 2 xã Trà Vinh và Đăk Nên tiến hành khảo sát thực địa lần thứ hai và tổ chức hội nghị hiệp thương tại huyện Nam Trà My để bàn biện pháp giải quyết. Tại Hội nghị lãnh đạo 2 Đoàn công tác đã tập trung thảo luận 2 phương án:

- Phương án 1: Chuyển toàn bộ hộ khẩu (184 hộ, 891 khẩu) của thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam cho xã Đăk Nên, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum quản lý.

- Phương án 2: Đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại ĐGHC giữa 2 xã Trà Vinh (Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) và xã Đăk Nên (huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum) theo hiện trạng lâu nay nhân dân 2 xã sinh sống từ đời ông, cha theo lịch sử truyền thống, địa lý.

Kết thúc hội nghị, lãnh đạo 2 đoàn thống nhất giao cho 2 huyện Nam Trà My và Kon Plong phối hợp tổ chức họp nhân dân thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh (Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) để trưng cầu ý kiến nhân dân và báo cáo lãnh đạo UBND 2 tỉnh để giải quyết.

Từ ngày 12 đến ngày 16/5/2009, Đoàn công tác của 2 huyện Nam Trà My và Kon Plong đã phối hợp tổ chức họp dân tại 2 điểm: thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My.

Qua thăm dò ý kiến của già làng, trưởng bản, những người có uy tín trong thôn, nóc và toàn thể nhân dân của 2 thôn đều thống nhất giải pháp: Đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại ĐGHC giữa 2 xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam và xã Đăk Nên, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum theo ĐGHC truyền thống (trước khi phân giới hành chính theo Chỉ thị 364/CP) với lý do: từ bao đời nay, từ thế hệ cha, ông đến bây giờ, người dân thôn 3 và thôn 4 xã Trà Vinh vẫn sinh sống tại vùng đất này thuộc huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.



2. Tình hình ĐGHC giữa xã Trà Vân, huyện Nam Trà My và xã Sơn Bua, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Qua kiểm tra thực địa tại khu vực thôn 3 xã Trà Vân (giáp với xã Sơn Bua, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi) và đối chiếu với hồ sơ, đoàn công tác nhận thấy đất canh tác của nhân dân thôn 3 xã Trà Vân nằm ngoài ranh giới hành chính của tỉnh Quảng Nam theo hồ sơ ĐGHC 364/CT đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt (tức là thuộc xã Sơn Bua, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi) nhưng người dân địa phương tại đây cũng khẳng định khu vực này là đất của xã Trà Vân từ bao đời nay.

Nguyện vọng của nhân dân thôn 3 xã Trà Vân, huyện Nam Trà My là muốn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh lại ĐGHC theo truyền thống lịch sử.

3. Tình hình ĐGHC giữa xã Trà Giáp, xã Trà Ka huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam với xã Trà Khê, xã Trà Xinh huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi

3.1. Tình hình ĐGHC giữa xã Trà Giáp, huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam với xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi

Theo báo cáo của UBND huyện Bắc Trà My, tranh chấp ĐGHC giữa thôn 1 xã Trà Giáp, Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam với tổ 4, thôn Đông, xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi. UBND huyện Bắc Trà My đã thành lập đoàn công tác (có phối hợp với huyện Tây Trà và UBND xã Trà Khê) đi kiểm tra thực địa, xác định ranh giới hành chính xã Trà Giáp, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam với xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi như sau:

- Lần 1 vào ngày 7/9/2006 tại khu vực đất đang khai hoang, san ủi làm ruộng lúa nước thuộc thôn Đông, xã Trà Khê mà nhân dân thôn 1 xã Trà Giáp đang tranh chấp.

Qua kiểm tra thực tế tại hiện trường nơi nhân dân thôn Đông, xã Trà Khê, huyện Tây Trà san ủi khai hoang làm ruộng lúa nước nói trên (khoảng 8 ha); đối chiếu với hồ sơ, bản đồ 364 hiện hành, hai địa phương xác định khu vực đất đó hoàn toàn thuộc về địa phận của thôn Đông, xã Trà Khê.

- Lần 2 vào ngày 6/9/2007 tại khu vực có diện tích 4,78 ha đang tranh chấp giữa thôn 1, xã Trà Giáp, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam với tổ 4 thôn Đông, xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi.

Đoàn kiểm tra nhận thấy: khu vực 4,78 ha đất tại tọa độ nói trên mà nhân dân thôn 1, xã Trà Giáp, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam tranh chấp đất sản xuất thuộc về thôn Đông, xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi.

3.2. Tình hình ĐGHC giữa xã Trà Ka huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam với xã Trà Xinh huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi

Qua kiểm tra thực tế khu vực tranh chấp: từ ngã ba Sông Tang, Sông Lon đến ngã ba Sông Tang, suối Hpoc.

Trước đây nhân dân xã Trà Ka sinh sống tại khu vực từ ngã ba sông Tang và suối Hpoc đến đỉnh Vân Ret nhưng do bị dịch bệnh xảy ra nên nhân dân xã Trà Ka đã di dân đến khu vực ngã ba sông Tang và suối Lon để sinh sống, làm ăn nhưng vẫn tiến hành sản xuất và chôn cất mồ mả ông bà tại khu vực đất cũ. Đến năm 1994 khi phân chia ranh giới 364 thì khu vực từ ngã ba sông Tang, suối Hpoc đến ngã ba sông Tang, Sông Lon thuộc ranh giới xã Trà Xinh, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi.

Từ năm 2004 đến nay, nhân dân xã Trà Xinh tiến hành phát rẫy, sản xuất đất ở khu vực từ ngã ba Sông Tang, suối Hpoc đến ngã ba Sông Tang, Sông Lon nên dẫn đến việc tranh chấp ranh giới và đất sản xuất giữa nhân dân thôn 3, xã Trà Ka, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam và nhân dân thôn Kem, xã Trà Xinh, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi.
II. TÌNH HÌNH TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

LIÊN QUAN ĐGHC TRONH TỈNH
1. Tình hình quản lý nhà nước về cột mốc ĐGHC và đường ĐGHC giữa xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My và xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước

Sau khi có báo cáo của UBND huyện Tiên Phước đề nghị giải quyết sai lệch về mốc và đường ĐGHC giữa xã Tiên Hiệp huyện Tiên Phước và xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam giao Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh chủ trì buổi làm việc cùng với Sở Nội vụ và các địa phương, sau đó đã thành lập Đoàn khảo sát thực địa tại cột mốc 2H1 và đường địa giới hành chính giữa 2 xã, đã xác định như sau: Cột mốc 2H1 và đường địa giới hành chính giữa xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My và xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước được thiết lập theo Biên bản xác nhận mô tả địa giới hành chính ngày 14/6/1994 (gọi tắt là biên bản 1) và Biên bản xác nhận mô tả địa giới hành chính ngày 15/6/1994 (gọi tắt là biên bản 2), do Đoàn khảo sát và Ban Chỉ đạo 364 giữa 2 địa phương xác lập. Trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước về địa giới hành chính theo hồ sơ ĐGHC 364 đã nảy sinh tranh chấp giữa 2 địa phương là do:

- Biên bản xác nhận mô tả ngày 14/6/1994 (biên bản 1), không trùng khớp với nội dung Biên bản xác nhận mô tả địa giới hành chính ngày 15/6/1994 (biên bản 2).

- Theo nội dung mô tả tại biên bản 1 thì đường địa giới hành chính giữa 2 xã đi qua dốc Đá Bắn nhưng nội dung mô tả tại biên bản 2 và bản đồ ĐGHC 364 thì đường địa giới hành chính giữa 2 xã đi qua dốc Đá Bàn (Dốc tờn). Mốc 2H1 giữa xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My và xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước được cắm cách dốc Đá Bắn khoảng 500 m về hướng Bắc; sau khi xác lập các giải pháp kỹ thuật chuyển toàn bộ 2 đường ĐGHC không đồng nhất theo nội dung mô tả trên ra thực địa thì diện tích đất chồng lấn nằm giữa 2 đường ĐGHC khoảng 40 ha do nhân dân xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước sản xuất từ năm 1975 đến nay; hiện có 6 hộ với 34 nhân khẩu đang sinh sống và được chính quyền xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Sau khi thực hiện cắm mốc ĐGHC 364 nói trên, giữa 2 địa phương gặp khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về ĐGHC (huyện Bắc Trà My quản lý mốc ĐGHC, huyện Tiên Phước quản lý đất đai, đời sống, sản xuất của nhân dân). Sau nhiều lần làm việc để giải quyết vấn đề này nhưng chưa thống nhất chung, UBND huyện Bắc Trà My đề nghị là phải tuân thủ theo quy định 364, có nghĩa là vẫn giữ nguyên mốc cũ, đề nghị huyện Tiên Phước thực hiện bàn giao số hộ dân đang sinh sống, diện tích đất, rừng (40 ha) về huyện Bắc Trà My quản lý; trong khi đó huyện Tiên Phước không thống nhất việc chuyển giao các hộ dân và diện tích đất rừng trong khu vực tranh chấp này mà đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại ĐGHC theo biên bản hiệp thương ban đầu (biên bản 1) vì cho rằng diện tích đất lâm nghiệp, đất ở, đất ruộng; hộ tịch, hộ khẩu tại khu vực tranh chấp do xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước quản lý từ năm 1975 đến nay (khu vực tranh chấp này có trong tờ bản đồ địa chính theo Quyết định 299). Các hộ dân cư đang sinh sống tại đây tham gia sinh hoạt cùng với nhân dân thôn 4 xã Tiên Hiệp thuận lợi hơn.

Sở Tài nguyên và Môi trường sau khi kiểm tra mốc ĐGHC và đường ĐGHC giữa 2 địa phương nêu trên có ý kiến đề nghị: Theo nội dung biên bản xác nhận mô tả ĐGHC ngày 14/6/1994 (biên bản 1) giữa xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My và xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước là phù hợp với tình hình sử dụng đất của địa phương.



2. Về tình hình tranh chấp ĐGHC giữa xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn với xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên; giữa xã Quế Long, huyện Quế Sơn với xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn

Theo báo cáo của UBND huyện Quế Sơn đề nghị xác định lại ranh giới và giải quyết sai lệch đường địa giới hành chính giữa xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn với xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên; xã Quế Long, huyện Quế Sơn với xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn. UBND tỉnh giao Sở Nội vụ tỉnh Quảng Nam chủ trì, phối hợp với Sở Tài Nguyên - Môi Trường và các địa phương liên quan tổ chức đoàn khảo sát kiểm tra thực địa ranh giới giữa các địa phương trên, kết quả như sau:

- Đối với xã Quế Hiệp (Quế Sơn) và xã Duy Trung (Duy Xuyên): Đường Địa giới hành chính trong biên bản xác nhận mô tả ĐGHC lập ngày 15/4/1994 do lãnh đạo 2 xã Quế Hiệp (Quế Sơn) và Duy Trung (Duy Xuyên) xác nhận và đường ĐGHC trên bản đồ hành chính 364 do Xí nghiệp trắc địa bản đồ, thuộc Tổng cục đo đạc bản đồ đo vẽ lập ngày 11/10/1995 có diện tích đất đo vẽ lệch về phía thôn Nghi Sơn xã Quế Hiệp là 80,7 ha. Trong đó:

+ Đất nông nghiệp do 20 hộ dân thôn nghi Sơn (Quế Hiệp) sản xuất là: 2,3 ha (đã giao quyền sử dụng đất cho 13 hộ 1.08 ha; đất tạm giao chưa có bìa đỏ 1,22 ha cho 07 hộ).

+ Đất lâm nghiệp là: 78,4 ha (đã giao cho 10 hộ quản lý sử dụng (có bìa đỏ) là: 19,7 ha; nhân dân tự quản lý, khai thác từ lâu nay là 38,7; còn lại nhân dân xã Duy Trung, Duy xuyên sản xuất khoản 20 ha).

- Đối với xã Quế Long (huyện Quế Sơn) với xã Quế Lộc (huyện Nông Sơn): Qua đo đạc ngoài thực địa và xác định trên bản đồ 364 nhận thấy: vị trí đường ĐGHC trên bản đồ 364 lập ngày 11/10/1995 so với đường ĐGHC trong biên bản hiệp thương mô tả đường ĐGHC được lãnh đạo của 2 xã ký xác nhận ngày 26/02/1994 thì đường ĐGHC trên bản đồ vẽ lệch về phía xã Quế Long (Quế Sơn) 250m, có diện tích đất thuộc xã Quế Long quản lý từ trước đến nay là 12,33 ha. Nay theo bản đồ 364 thì phần đất này thuộc về xã Quế Lộc (Nông Sơn).

Nguyện vọng của nhân dân các xã thuộc huyện Quế Sơn là đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại mốc giới theo bản đồ 364 đúng như biên bản hiệp thương mô tả đường ĐGHC được lãnh đạo của các địa phương xã ký xác nhận.

3. Tình hình ĐGHC giữa xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ và xã Tam Thái, huyện Phú Ninh.

Năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 5/01/2005 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Tam Kỳ (cũ) thành hai đơn vị hành chính là thị xã (nay là thành phố) Tam Kỳ và huyện Phú Ninh, Ủy ban nhân dân thành phố Tam Kỳ và UBND huyện Phú Ninh đã tiến hành kiểm tra và thống nhất xác định đường ĐGHC của 2 địa phương. Tuy nhiên, tại thời điểm chia tách, việc xác định các mốc ĐGHC giữa xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ với xã Tam Thái, huyện Phú Ninh chủ yếu theo đường phân thủy (kênh Ba Kỳ và kênh N2-A) mà chưa căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất trên thực tế. Do vậy, có một phần tuyến đường giao thông (đường vào Nghĩa Trang Tam Kỳ) do UBND thành phố Tam Kỳ làm chủ đầu tư thuộc địa giới hành chính xã Tam Thái, huyện Phú Ninh.

Trong thời gian vừa qua, một số hộ dân ở xã Tam Thái, huyện Phú Ninh đã lấn chiếm đất trên địa bàn xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ để xây dựng nhà ở trái phép (dựa theo bản đồ ĐGHC 364 và hồ sơ ĐGHC xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ).

Ngày 6/7/2009 UBND thành phố Tam Kỳ đã khảo sát xác định lại tuyến ĐGHC của xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ và xã Tam Thái, huyện Phú Ninh. Trên cơ sở hồ sơ mô tả tuyến ĐGHC của 2 xã: Từ cột mốc (TN-TT) 2X.1 đến tâm cầu Bà Ngôn (nằm trên đường Tam Kỳ đi Phú Ninh).

Mốc (BN-TT-TT) 03X.1 còn nguyên hiện trạng. Theo mô tả kỹ thuật trong hồ sơ ĐGHC xã Tam Ngọc, tuyến ĐGHC nêu trên xuất phát từ mốc bê tông 2 mặt có số hiệu (TN-TT) 2X.1 (tại Nghĩa Trang thành phố Tam Kỳ) chạy theo hướng Nam 20m đến đường nhựa (Tam Kỳ đi Phú Ninh) chuyển hướng Tây đến cầu nhỏ (cầu Bà Ngôn). Sau khi UBND thành phố Tam Kỳ xây dựng Nghĩa Trang thành phố, tuyến ĐGHC này cắt ngang đường vào Nghĩa Trang thành phố dẫn đến việc khó xác định được ranh giới giữa 2 xã Tam Ngọc và xã Tam Thái.

UBND thành phố Tam Kỳ đề nghị xác định và điều chỉnh lại mốc giới một số đoạn trong tuyến ĐGHC giữa xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ và xã Tam Thái, huyện Phú Ninh (nằm trên bản đồ D-49-13-B) cho phù hợp với hiện trạng sử dụng đất. Để tạo sự ổn định, sinh sống và sản xuất của các hộ dân cư tại khu vực xảy ra tranh chấp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý ĐGHC của thành phố Tam Kỳ và huyện Phú Ninh trong thời gian tới.



4. Về việc điều chỉnh địa giới hành chính giữa huyện Đông Giang và huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

Thực hiện Thông báo kết luận số 135/TB-TU ngày 26/3/2007 của Thường trực Tỉnh uỷ Quảng Nam tại buổi làm việc với Thường trực Huyện uỷ Đông Gang; UBND tỉnh Quảng Nam có Công văn số 2029/UBND-NC ngày 16/6/2009 về việc khảo sát thực địa để xác định địa giới hành chính giữa hai huyện Đông Giang và Nam Giang, tỉnh Quảng Nam; giao cho Sở Nộ vụ chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, địa phương liên quan tiến hành tổ chức thực hiện nội dung trên.

Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Đoàn công tác của tỉnh do Giám đốc Sở Nội vụ làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Lãnh đạo và các ngành liên quan của 2 huyện Đông Giang và Nam Giang, sau khi làm việc và khảo sát thực địa, đoàn công tác xác định như sau:

- Về mặt lịch sử thì toàn bộ diện tích 2.114 ha, thuộc 2 tiểu khu: gồm tiểu khu 222 (với 1.184 ha) và tiểu khu 288 (với 930 ha) trước đây thuộc huyện Hiên (trên cơ sở lấy dòng Sông Buong làm ranh giới) cho đến khi xác định lại ĐGHC theo Chỉ thị 364 thì cắt chuyển cho huyện Nam Giang (lấy theo suối Pa nal làm ranh giới).

- Toàn bộ diện tích 2.114 ha này là núi đá vôi, thuộc rừng phòng hộ; dân cư không có; cách thị trấn Thành Mỹ (Nam Giang) 35km, cách UBND xã Mà Cooih (Đông Giang) 15km và khu dân cư mới của xã Mà Cooih khoảng 5km; tình hình khai thác rừng trái phép tại khu vực này luôn diễn ra và rất phức tạp.

Mục đích xin điều chỉnh: Để tạo thuận lợi cho sự quản lý của 2 huyện, nhất là trong công tác bảo vệ tài nguyên rừng. Sau khi điều chỉnh ĐGHC chuyển toàn bộ diện tích 2.114 ha về huyện Đông Giang, thì vẫn thuộc chức năng rừng phòng hộ và sẽ giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ A Vương quản lý để giao khoán cho cộng đồng dân cư Khu tái định cư Cutchrun bảo vệ (ngoài mục đích trên không có vấn đề về mất đoàn kết giữa 2 huyện và không có vấn đề về tranh chấp đất đai giữa 2 huyện).



III. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Về giải quyết việc tranh chấp ĐGHC giữa tỉnh Quảng Nam với tỉnh bạn

Xuất phát từ tình cảm và nguyện vọng chính đáng của người dân, UBND tỉnh đề nghị Bộ Nội vụ có văn bản đề xuất với Chính phủ giải quyết điều chỉnh lại địa giới hành chính theo hướng trở về với lịch sử truyền thống giữa các địa phương, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân xã Trà Giáp, xã Trà Ka huyện Bắc Trà My, xã Trà Vinh và xã Trà Vân huyện Nam Trà My an tâm lao động sản xuất, ổn định cuộc sống.



2. Về giải quyết việc tranh chấp ĐGHC giữa các xã, huyện trong tỉnh

Theo quy định của nhà nước về thẩm quyền giải quyết tranh chấp địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã. UBND tỉnh kính đề nghị Bộ Nội vụ cho ý kiến chỉ đạo và sớm có định hướng để UBND tỉnh có căn cứ giải quyết dứt điểm việc tranh chấp đường ĐGHC đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định.

Trên đây là báo cáo tổng hợp tình hình kết quả giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính hiện còn một số vướng mắc, tồn tại./.

Nơi nhận: T.M UỶ BAN NHÂN DÂN

- Văn phòng Chính phủ; CHỦ TỊCH

- Bộ Nội vụ (Hà Nội, Đà Nẵng);

- CT, PCT UBND tỉnh; Đã ký

- Sở Nội vụ;

- LĐVP;


- Lưu: VT, KTN, VX, TH, NC.

Lê Minh Ánh


Каталог: vbpq quangnam.nsf -> 9e6a1e4b64680bd247256801000a8614
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Số: 1037/QĐ-ttg CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> TỈnh quảng nam số: 2483/ubnd-ktn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Ủy ban nhân dân tỉnh quảng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Ủy ban nhân dân tỉnh quảng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> UỶ ban nhân dân tỉnh quảng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Danh môc vµ gi¸ Gãi thçu thiõt bþ D¹y nghò mua s¾M §îT 2 N¡M 2008 cña tr­êng trung cÊp nghÒ tØnh qu¶ng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Số: 3571 /QĐ-ubnd
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> U Ỷ ban nhân dân tỉnh quảng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> Ủy ban nhân dân tỉnh quảng nam
9e6a1e4b64680bd247256801000a8614 -> UỶ ban nhân dân tỉnh quảng nam

tải về 54.75 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương