Về dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi)



tải về 108.4 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích108.4 Kb.
#28924


CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM




Độc lập - Tự do - Hạnh phúc




Số:  166 /TTr- CP

Hà Nội, ngày  21 tháng 9 năm 2011.

TỜ TRÌNH

 Về dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi)



Kính gửi: Quốc hội.


Căn cứ Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 22 tháng 11 năm 2007 của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011) và năm 2008, Nghị quyết số 48/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 Quốc hội khoá 12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và Nghị quyết số 07/2011/QH13 ngày 6 tháng 8 năm 2011 Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, Chính phủ được giao nhiệm vụ chủ trì soạn thảo dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) kể từ năm 2008.

Chính phủ trình Quốc hội Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) như sau:



I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT LAO ĐỘNG (SỬA ĐỔI)

1. Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật lao động của nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Đây là lần đầu tiên nước ta có Bộ luật Lao động hoàn chỉnh để thể chế hoá quan điểm, đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 về các quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực lao động, sử dụng và quản lý lao động.

Bộ luật Lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; quy định về bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, Bộ luật Lao động có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong hệ thống pháp luật của quốc gia.

2. Sau 15 năm thi hành, Bộ luật Lao động hiện hành cơ bản đã đi vào thực tiễn cuộc sống, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể thiết lập quan hệ lao động, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, điều chỉnh hợp lý quan hệ lao động và các quan hệ xã hội khác có liên quan mật thiết đến quan hệ lao động phù hợp với yêu cầu thực tiễn như: hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động trách nhiệm vật chất, tranh chấp lao động và cơ chế giải quyết tranh chấp lao động, đình công.

Tuy nhiên đến nay, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của thị trường lao động, quan hệ lao động đã có những thay đổi mới đòi hỏi Bộ luật Lao động cần phải được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể là:

- Thứ nhất, Bộ luật Lao động được ban hành trong thời kỳ nền kinh tế nước ta vừa mới chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề chủ yếu của kinh tế thị trường nói chung, của thị trường lao động và quan hệ lao động nói riêng mới chỉ ở giai đoạn ban đầu, chưa hoàn chỉnh. Đến nay, tình hình mọi mặt của đất nước đã có nhiều thay đổi nên phải sửa đổi Bộ luật Lao động để kịp thời điều chỉnh thực tiễn phát sinh và thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020.

- Thứ hai, dù đã qua 3 lần sửa đổi, bổ sung nhưng các lần sửa đổi, bổ sung đó mới chỉ là sửa đổi, bổ sung từng chương, mục, điều cụ thể để đáp ứng một số yêu cầu thực tế phát sinh mà chưa có điều kiện rà soát, chỉnh sửa một cách toàn diện; nhiều quy định của Bộ luật Lao động vẫn còn mang tính nguyên tắc nên cần phải có nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, một số nội dung như dạy nghề, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài đã được tách ra thành những đạo luật riêng. Do đó, Bộ luật Lao động cần phải được sửa đổi để bảo đảm kết cấu, bố cục tổng thể, bảo đảm sự phù hợp với các luật chuyên ngành góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật lao động.

- Thứ ba, kể từ khi Bộ luật Lao động ban hành (năm 1994) đến nay, đã có rất nhiều luật khác có nội dung liên quan trực tiếp với Bộ luật Lao động được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung (như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010...), đặc biệt là Luật Công đoàn cũng đang trong quá trình sửa đổi. Mặt khác, theo dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XIII thì Chính phủ sẽ trình Quốc hội một số luật trong lĩnh vực lao động như Luật Việc làm, Luật An toàn vệ sinh lao động, Luật Tiền lương tối thiểu. Do đó, việc xây dựng Bộ luật Lao động (sửa đổi) cho phù hợp với các luật khác liên quan đã sửa đổi và các luật chuyên ngành dự kiến sẽ được ban hành là yêu cầu hết sức cần thiết.

3. Trước yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, đặc biệt là sau khi đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Bộ luật Lao động cần phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, đồng thời nội luật hoá các quy định của các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đặc biệt là các Công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn và phù hợp với pháp luật lao động của các nước ASEAN, thông lệ quốc tế.

II. QUAN ĐIỂM SỬA ĐỔI BỘ LUẬT LAO ĐỘNG

Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động được chuẩn bị trên cơ sở quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Tiếp tục cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 và kịp thời thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020;

2. Bảo vệ người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng lao động;

3. Pháp điển hoá các quy định trong hệ thống pháp luật lao động và quản lý lao động hiện hành, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn áp dụng Bộ luật Lao động trong 15 năm thi hành, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống, sửa đổi các quy định chưa phù hợp; bổ sung những quy định mới cần thiết phù hợp với cơ chế thị trường;

4. Tăng cường và đổi mới quản lý nhà nước về lao động, tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyền thương lượng và tự định đoạt của các bên quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động;

5. Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật lao động của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia thành viên ASEAN, thông lệ quốc tế và nội dung của các Điều ước quốc tế mà nước ta đã phê chuẩn hoặc tham gia phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

III. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG (SỬA ĐỔI)

1. Về phạm vi điều chỉnh của dự án Bộ luật

Bộ luật Lao động được xác định là Bộ luật gốc, quy định về lĩnh vực lao động, trong đó có các chế độ lao động liên quan đến quyền lao động, quyền nghỉ hưu, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động… Do đó, về phạm vi điều chỉnh của Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) quy định: "Bộ luật Lao động quy định quyền, nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động" (Điều 1).

Bên cạnh đó, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) quy định: “Chế độ lao động đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người giữ các chức vụ được bầu, cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, người thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác và xã viên hợp tác xã do các văn bản pháp luật khác quy định nhưng tuỳ từng đối tượng mà được áp dụng một số quy định trong Bộ luật Lao động” (Khoản 4, Điều 2).

2. Về đối tượng áp dụng

Dự thảo Bộ luật Lao động áp dụng đối với 3 nhóm đối tượng theo hợp đồng lao động, đó là:

- Người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động, người học nghề, tập nghề, người giúp việc gia đình và một số loại lao động khác được quy định tại Bộ luật này;

- Người sử dụng lao động;

- Người lao động nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tại Việt Nam trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác ( Khoản 1, 2, 3 Điều 2).

IV. NỘI DUNG CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG (SỬA ĐỔI)

Bộ luật Lao động hiện hành gồm có Lời nói đầu, 17 chương và 223 điều, dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) vẫn giữ nguyên số chương là 17 chương và nâng số điều lên tổng số 273 điều (trong đó giữ nguyên 52 điều, sửa đổi 157 điều và bổ sung mới 64 điều).

Tất cả các điều đều đã được đặt tên. Các chương được chia thành mục theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.

Chương I: Quy định chung

Chương I Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 9 điều. So với Bộ luật Lao động hiện hành, Chương này cơ bản vẫn giữ nguyên phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng và có một số điểm mới:

- Bổ sung 1 điều giải thích từ ngữ, trong đó, đưa ra khái niệm mới về “đại diện tập thể lao động”.

- Bổ sung quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp; quyền gia nhập hoạt động trong Hội nghề nghiệp của người sử dụng lao động; quyền cử đại diện để đối thoại, thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể.

- Bổ sung quy định về trách nhiệm đối thoại của người sử dụng lao động với tập thể lao động.

- Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở của người sử dụng lao động.



Chương II: Việc làm

Chương II Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 8 điều quy định về: việc làm; quyền làm việc của người lao động; quyền tuyển chọn lao động của người sử dụng lao động; chính sách của nhà nước về việc làm; chương trình việc làm; người sử dụng lao động tham gia giải quyết việc làm; Quỹ quốc gia về việc làm; Quỹ việc làm địa phương; tổ chức dịch vụ việc làm.

Những sửa đổi, bổ sung của Chương này tập trung quy định hai nhóm:

- Nguyên tắc về việc làm, giải quyết việc làm, trong đó có những tuyên bố chính sách nhà nước về việc làm.

- Nội dung về việc làm liên quan trong quá trình sử dụng lao động; bổ sung thêm quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tham gia giải quyết việc làm.

Chương III: Hợp đồng lao động

Chương III Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 5 mục, 46 điều quy định về giao kết hợp đồng lao động; thực hiện hợp đồng lao động; sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động; hợp đồng lao động vô hiệu; và cho thuê lại lao động.

Những sửa đổi cơ bản của Chương này so với Bộ luật Lao động hiện hành tập trung vào các vấn đề như:

- Sửa đổi quy định về phân loại hợp đồng lao động. Theo đó, bỏ giới hạn tối đa đối với hợp đồng lao động có thời hạn xác định từ đủ 12 tháng trở lên.

- Quy định thời hạn (1 tháng) bắt buộc để ký hợp đồng lao động bằng văn bản đối với người lao động làm việc theo loại hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên.

- Quy định cấm đối với người sử dụng lao động khi giao kết hợp đồng lao động như: giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng chứng chỉ của người lao động; buộc người lao động cam kết thực hiện các điều khoản làm hạn chế các quyền hợp pháp khác của người lao động; yêu cầu người lao động phải thực hiện bất kỳ một sự bảo đảm nào về tài sản cho việc thực hiện hợp đồng lao động bằng tài sản, trừ trường hợp do Chính phủ quy định.

- Nâng mức tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc để bảo đảm quyền lợi cho người lao động (85% so với 70% của hiện hành).

- Quy định cụ thể hơn các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động.

- Cụ thể hóa cách tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.

- Quy định về cho thuê lại lao động.



Chương IV: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề đối với người lao động

Hiện nay, Luật Dạy nghề đã được Quốc hội ban hành năm 2006 và có hiệu lực từ năm 2007. Do đó, Chương này chỉ tập trung vào sửa đổi, bổ sung các quy định về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề đối với người lao động đang làm việc (dạy nghề trong quá trình làm việc) và đào tạo nghề có tính chất kèm cặp, nâng cao trình độ nghề nghiệp đối với người lao động chuẩn bị làm việc cho người sử dụng lao động. Cụ thể là:

- Quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đào tạo nâng cao trình độ nghề cho người lao động.

- Quy định về hợp đồng đào tạo nghề và chi phí dạy nghề; việc bồi thường chi phí đào tạo.

- Quy định về việc người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình thì không được thu học phí và được miễn thuế; tuổi học nghề, tối thiểu là 14.

Chương V: Thương lượng tập thể - Thoả ước lao động tập thể

Chương V Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 4 mục, 24 điều. Chương này sửa đổi theo hướng: thúc đẩy và phát huy tối đa sự thỏa thuận thương lượng để xác lập điều kiện lao động mới; quy định thương lượng tập thể là bắt buộc (khi có yêu cầu của một bên). Thương lượng tập thể được tiến hành ở cấp cơ sở giữa người sử dụng lao động và tập thể lao động, ở cấp ngành giữa đại diện người sử dụng lao động của ngành và công đoàn ngành.

So với Bộ luật Lao động hiện hành, Chương này có một số nội dung mới như:

- Quy định một mục riêng về thương lượng tập thể, coi đây là nội dung xuyên suốt của việc thiết lập, tiến hành quan hệ lao động giữa người lao động, tập thể lao động và người sử dụng lao động.

- Bổ sung các vấn đề mà hai bên có thể thương lượng.

- Bổ sung chủ thể ký kết thỏa ước lao động tập thể cơ sở là đại diện tập thể lao động trong trường hợp chưa thành lập công đoàn cơ sở.

- Quy định nguyên tắc về thỏa ước lao động tập thể ngành.

- Quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, công đoàn cấp trên, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong việc hỗ trợ, huấn luyện kỹ năng thương lượng và tham dự phiên họp thương lượng tập thể nếu có yêu cầu của hai bên.



Chương VI: Tiền lương

Chương VI Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 3 mục, 18 điều.

Những sửa đổi, bổ sung của Chương này dựa trên các nguyên tắc như: Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào mức tiền lương của người lao động, chỉ quy định mức tiền lương thấp nhất mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động; bình đẳng về tiền lương giữa các loại hình doanh nghiệp; thiết lập cơ chế bảo vệ người lao động thông qua các quy định chặt chẽ về cơ chế trả lương cho người lao động.

Các nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào các vấn đề như:

- Quy định rõ các loại lương tối thiểu, gồm: lương tối thiểu vùng, ngành.

- Quy định rõ các yếu tố xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu.

- Chính phủ chỉ quy định nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người sử dụng lao động áp dụng.

- Bãi bỏ quy định yêu cầu người sử dụng lao động phải đăng ký thang lương bảng lương với cơ quan nhà nước mà chỉ gửi để cơ quan quản lý nhà nước biết và giám sát thực hiện.



Chương VII: Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi

Chương VII Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 4 mục, 13 điều.

Nội dung sửa đổi cơ bản của Chương này tập trung vào vấn đề làm thêm giờ, theo đó thay đổi cách tính thời giờ làm thêm từ theo năm sang theo tháng và quy định thời gian làm thêm tối đa là không quá 30 giờ/tháng. Theo đó, thời giờ làm thêm tối đa trong một năm theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành là 200 giờ (một số nhóm ngành là 300 giờ) được tăng lên 360 giờ (30 giờ/ tháng x 12 tháng) trong một năm.

Chương VIII: Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất

Chương VIII Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 3 mục, 15 điều.

Những sửa đổi, bổ sung của Chương này tập trung vào các quy định:

- Nâng cao ý thức kỷ luật lao động của người lao động; bảo đảm quyền tự chủ điều hành sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động.

- Bổ sung vai trò của đại diện tập thể lao động nơi chưa có công đoàn cơ sở trong việc tham gia với người sử dụng lao động khi ban hành nội quy lao động.

- Bổ sung thêm các hành vi bị áp dụng hình thức kỷ luật sa thải, như: đánh bạc, hành hung gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật về sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động.

- Bổ sung những quy định cấm khi xử lý vi phạm kỷ luật lao động.

Chương IX: An toàn lao động, vệ sinh lao động

Chương IX Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Chương này gồm có 3 mục, 19 điều. Những sửa đổi, bổ sung trong Chương này tập trung vào các vấn đề như:

- Cải thiện điều kiện lao động tại nơi làm việc; nâng cao ý thức tuân thủ an toàn lao động; nâng cao chất lượng quản lý an toàn lao động.

- Bổ sung quy định về việc lập tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động.

- Bổ sung quy định về tổ chức kiểm định kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động; tiêu chuẩn kiểm định viên an toàn, vệ sinh lao động.

- Quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.



Chương X: Những quy định riêng đối với lao động nữ

Chương X Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Chương này gồm có 8 điều.

Những sửa đổi của Chương này tập trung vào các quy định: thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới trong việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, nâng bậc lương và trả lương; cụ thể hoá các điều kiện tại nơi làm việc khi sử dụng người lao động nữ; quy định cụ thể hơn về chính sách cho vay vốn đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều người lao động nữ; quy định chi tiết các quyền của người lao động nữ và trách nhiệm của doanh nghiệp sử dụng người lao động nữ.

Chương XI: Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số loại lao động khác

Chương XI Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 7 mục, 31 điều.

So với Bộ luật Lao động hiện hành, những sửa đổi của Chương này gồm:

- Quy định cụ thể về điều kiện sử dụng lao động trẻ em, lao động chưa thành niên; các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động trẻ em, lao động chưa thành niên.

- Bổ sung thẩm quyền giao Chính phủ quy định về điều kiện sử dụng người lao động cao tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm.

- Quy định cụ thể về giấy phép lao động; điều kiện, thời hạn, hiệu lực, cấp, cấp lại giấy phép lao động đối với lao động là người nước ngoài theo hướng quản lý chặt chẽ hơn.

- Quy định cụ thể hơn về lao động giúp việc gia đình, lao động không trọn thời gian.

Chương XII: Bảo hiểm xã hội

Do các nội dung chính về bảo hiểm xã hội đã được điều chỉnh trong Luật Bảo hiểm xã hội, nên Chương XII Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 4 điều quy định nguyên tắc về:

- Việc chi trả tiền cho những người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc;

- Quyền nghỉ hưu của người lao động.



Chương XIII: Công đoàn

Chương XIII Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 9 điều.

Nội dung sửa đổi trong Chương này tập trung vào:

- Việc xác định chủ thể đại diện của tập thể lao động. Theo đó, đại diện tập thể lao động là: Công đoàn cơ sở. Ở nơi chưa thành lập được công đoàn cơ sở thì tập thể người lao động có quyền bầu người đại diện theo vụ việc hoặc kiến nghị công đoàn cấp trên trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, tập thể lao động.

- Cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở, người đại diện tập thể lao động.

- Trách nhiệm và các hành vi bị nghiêm cấm của chủ sử dụng lao động đối với việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, hoạt động của người đại diện tập thể lao động.

- Vai trò của công đoàn cấp trên cơ sở, cơ quan quản lý nhà nước.

Chương XIV: Giải quyết tranh chấp lao động

Chương XIV Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 5 mục, 47 điều.

Những sửa đổi, bổ sung chính của Chương này là:

- Bỏ Hội đồng hoà giải cơ sở.

- Không cho phép đình công phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về quyền.

- Quy định quyền, điều kiện người sử dụng lao động thực hiện quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp.

- Sửa đổi đối tượng lấy ý kiến để đình công, theo đó: Đối với tập thể lao động có công đoàn cơ sở thì lấy ý kiến của thành viên Ban chấp hành công đoàn cơ sở và Tổ trưởng các tổ sản xuất; nơi chưa có công đoàn cơ sở thì lấy ý kiến của Tổ trưởng các tổ sản xuất hoặc trực tiếp của người lao động.

- Sửa đổi tỷ lệ người lao động đồng ý đình công, theo đó bỏ quy định về tỷ lệ 75% đối với tập thể lao động có từ 300 người lao động trở lên và quy định tỷ lệ thống nhất ý kiến đồng ý đình công là trên 50% số người được lấy ý kiến mà không phụ thuộc vào số lượng người lao động.

- Quy định vai trò, chức năng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tuyên bố và giải quyết cuộc đình công vi phạm trình tự, thủ tục.

- Quy định cho phép tập thể lao động tiến hành đình công khi hòa giải tại Hội đồng trọng tài lao động không thành hoặc khi người sử dụng lao động không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong biên bản hòa giải thành.



Chương XV: Quản lý nhà nước về lao động

Chương XV Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm có 4 điều. Về cơ bản, Chương này giữ nguyên so với Bộ luật Lao động hiện hành.



Chương XVI: Thanh tra nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động

Chương XVI Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 2 mục, 11 điều.

Những sửa đổi, bổ sung của Chương này tập trung vào:

- Quy định cụ thể về nội dung, thẩm quyền của thanh tra lao động.

- Quy định về tiêu chuẩn tuyển chọn, bổ nhiệm, thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức thanh tra viên lao động.

Chương XVII: Điều khoản thi hành

Trong dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Chương này vẫn gồm 3 Điều quy định về: Hiệu lực của Bộ luật lao động; hiệu lực đối với nơi sử dụng dưới 10 người lao động; trách nhiệm hướng dẫn thi hành. Quy định của Chương này cho phép những nơi sử dung lao động dưới 10 người lao động được miễn trừ một số nghĩa vụ do Chính phủ quy định.



V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU CẦN XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI

Qua tổng hợp, đa số ý kiến tham gia đều thống nhất về bố cục và nội dung cơ bản của dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi). Tuy nhiên, có một số vấn đề còn ý kiến khác nhau trong quá trình soạn thảo, Chính phủ báo cáo và xin ý kiến Quốc hội, cụ thể như sau:

1. Về thỏa ước lao động tập thể ngành

- Ý kiến thứ nhất: đề nghị cần có những quy định khuyến khích tập thể lao động và người sử dụng lao động xây dựng thoả ước lao động tập thể trong doanh nghiệp nhưng về lâu dài vẫn nên quy định về Thoả ước lao động tập thể ngành để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc thương lượng, ký kết thoả ước ngành trong tương lai, giảm bớt nội dung thương lượng và thoả ước tập thể của từng doanh nghiệp trong ngành, bảo đảm thống nhất những chế độ lao động và trách nhiệm xã hội trong ngành.

- Ý kiến thứ hai: đề nghị không nên quy định về thoả ước lao động tập thể ngành. Ý kiến này cho rằng vì hai chủ thể cơ bản trong việc thương lượng, ký kết thoả ước ngành ở Việt Nam hiện nay chưa đủ rõ. Tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở một số ngành chưa được hình thành hoặc nếu có thì tổ chức đại diện người sử dụng lao động đó lại không là đại diện cho tất cả các chủ sử dụng lao động trong cùng một ngành (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Công đoàn ngành theo hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam lại chưa đại diện hết tất cả các công đoàn cơ sở của doanh nghiệp cùng ngành: công đoàn ngành có doanh nghiệp theo hệ thống công đoàn dọc từ trên xuống dưới; có doanh nghiệp theo hệ thống hành chính (công đoàn địa phương); có doanh nghiệp vừa theo hệ thống công đoàn dọc, vừa theo hệ thống công đoàn địa phương.

Về vấn đề này, Chính phủ đồng tình với ý kiến thứ nhất và thể hiện trong dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) theo hướng có một số quy định về thoả ước ngành. Tuy nhiên, chỉ quy định ở mức độ nguyên tắc để làm cơ sở cho việc hướng dẫn thi hành và sau một thời gian thực hiện sẽ tổng kết, đánh giá để có những quy định cụ thể hơn.

2. Về thời giờ làm thêm

- Ý kiến thứ nhất: đề nghị tăng thời giờ làm thêm tối đa của người lao động.

Các ý kiến này cho rằng trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay của nước ta, việc tăng thời giờ làm thêm của người lao động sẽ tạo điều kiện cho chủ sử dụng lao động huy động người lao động làm thêm để hoàn thành các công việc mang tính thời vụ, đột xuất hay thực hiện các công việc gấp theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Ý kiến thứ hai: đề nghị giữ như quy định hiện hành về thời gian làm thêm, tối đa là 200 giờ trong một năm trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ trong một năm. Bởi lẽ, với điều kiện về thể chất của người lao động Việt Nam thì quy định như hiện hành là phù hợp để bảo vệ sức khoẻ của người lao động về lâu dài, tạo việc làm cho nhiều người lao động đang thiếu việc làm nhằm giảm bớt vấn đề về xã hội nẩy sinh khi không có việc làm, tránh được việc lợi dụng của người sử dụng lao động liên tục huy động làm thêm giờ để không tuyển thêm lao động và giảm bớt chi phí cho người sử dụng lao động do tiền làm thêm giờ không phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế....

Về vấn đề này, Chính phủ đề nghị theo ý kiến thứ nhất bởi các lý do sau:

- Thứ nhất, việc làm thêm giờ là tự nguyện, người sử dụng lao động không được cưỡng ép người lao động làm thêm trái với ý muốn mà ngược lại, người lao động được quyền quyết định có làm thêm hay không khi người sử dụng lao động có yêu cầu.

- Thứ hai, việc tăng thời giờ làm thêm tối đa cho người lao động cũng sẽ tạo điều kiện cho người lao động có thêm thu nhập để tích luỹ cho cuộc sống của họ. Thực tiễn cho thấy, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó cơ bản là do thu nhập còn thấp, người lao động Việt Nam có nhu cầu làm thêm để gia tăng thu nhập.

- Thứ ba, việc tăng số giờ làm thêm cho người lao động góp phần làm tăng lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. Trong mối tương quan so sánh với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước thành viên ASEAN thì số giờ làm thêm tối đa của người lao động Việt Nam hiện ở mức thấp, cụ thể: Philippines không khống chế số giờ làm thêm tối đa của người lao động; Singapor là không quá 12 giờ/ngày tức 72 giờ/tháng; Indonexia là không quá 14 giờ/ tuần tức 56 giờ/tháng; Trung Quốc không được quá 36 giờ/tháng; Lào là không được vượt quá 45 giờ/tháng hoặc 3 giờ/ngày…

- Thứ tư, tiền lương trong thời gian làm thêm giờ được quy định cao hơn so với làm việc trong thời gian bình thường. Quy định này một mặt góp phần bù đắp về vật chất cho người lao động, mặt khác quy định này đỏi hỏi người sử dụng lao động phải hết sức cân nhắc về mặt chi phí giữa việc yêu cầu người lao động làm thêm giờ và việc tuyển dụng lao động mới.

Với các lý do đó, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) được thể hiện theo hướng: Người sử dụng lao động có quyền huy động người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đủ các điều kiện: được sự đồng ý của người lao động; người sử dụng lao động phải bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động tối đa không quá 50% số giờ làm việc chính thức trong một ngày và không quá 30 giờ trong một tháng; và sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ (Điều 112).

3. Về thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ

- Ý kiến thứ nhất: đề nghị cần tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ lên 06 tháng.

Việc tăng thời gian nghỉ thai sản lên 06 tháng sẽ bảo đảm sức khoẻ của lao động nữ và trẻ sơ sinh, phù hợp với khuyến nghị "nuôi con từ 0 - 6 tháng tuổi hoàn toàn bằng sữa mẹ" của Tổ chức sức khoẻ thế giới (WHO) và Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc UNICEF.

- Ý kiến thứ hai: đề nghị giữ thời gian nghỉ thai sản của người lao động nữ như quy định pháp luật hiện hành (04 tháng trong điều kiện làm việc bình thường, 05 tháng trong điều kiện làm công việc nặng nhọc độc hại làm việc theo chế độ 3 ca, làm việc thường xuyên ở nơi có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, công an nhân dân; và 06 tháng đối với lao động nữ là người tàn tật).

Về vấn đề này, Chính phủ cho rằng việc xác định thời gian nghỉ thai sản phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: thể chất của lao động nữ Việt Nam, khả năng thanh toán của Quỹ bảo hiểm xã hội, cung cầu lao động… Căn cứ vào các yếu tố như trên, với nguyên tắc bảo vệ lao động nữ, Chính phủ ủng hộ ý kiến thứ nhất. Tuy nhiên, Chính phủ cho rằng việc quy định tăng thời gian nghỉ thai sản phải có lộ trình và phải bảo đảm không tạo ra rào cản cho lao động nữ khi tham gia vào thị trường lao động; đồng thời, có tính toán đến khả năng chi trả của Quỹ bảo hiểm xã hội.

Do đó, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) tăng thời gian nghỉ thai sản từ 04 tháng theo quy định hiện hành lên 05 tháng đối với lao động nữ làm việc trong điều kiện bình thường; tăng thời gian nghỉ chế độ thai sản từ 05 tháng lên 06 tháng đối với lao động nữ làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành, làm việc theo chế độ ba ca, làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân. Đối với lao động nữ là người khuyết tật, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) giữ nguyên thời gian nghỉ thai sản như hiện hành là 06 tháng (Điều 161).

4. Về vấn đề bình đẳng giới và tuổi nghỉ hưu

- Ý kiến thứ nhất: đề nghị quyền hưởng lương hưu đối với người lao động giữ như quy định hiện hành, nghĩa là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ trong điều kiện lao động bình thường.

- Ý kiến thứ hai: đề nghị cần nâng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là nữ giới để bảo đảm bình đẳng giới và giảm thiểu áp lực với quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Về vấn đề này, Chính phủ nhận thấy kể từ trước khi Bộ luật Lao động được tiến hành sửa đổi, quyền nghỉ hưu của lao động nữ luôn luôn được đặt ra và có nhiều ý kiến khác nhau. Chính phủ cho rằng nghỉ hưu là quyền của người lao động. Do đó, khi lao động nữ đủ 55 tuổi và lao động nam đủ 60 tuổi (lao động trong điều kiện bình thường) thì họ có quyền nghỉ hưu. Tuy nhiên, những người lao động này vẫn có quyền tiếp tục làm việc nếu họ có nguyện vọng và được người sử dụng lao động đồng ý. Đối với một số lao động đặc thù như làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại… hay lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, lao động làm công tác quản lý thì tuổi nghỉ hưu sẽ do Chính phủ quy định.

Do đó, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) được thể hiện theo hướng khẳng định lao động nữ đủ 55 tuổi, người lao động nam đủ 60 tuổi có quyền nghỉ hưu. Đồng thời, giao Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu đối với một số loại lao động đặc thù khi người lao động tự nguyện kéo dài thời gian làm việc và được sự đồng ý của người sử dụng lao động (Điều 199).

5. Về giải quyết tranh chấp lao động

- Ý kiến thứ nhất: đề nghị cần căn cứ thực tiễn tình hình tranh chấp lao động và việc giải quyết tranh chấp trong thời gian qua, tập trung sửa đổi các quy định chưa phù hợp trong Bộ luật Lao động nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của quan hệ lao động, hạn chế tranh chấp lao động, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần giữ vững ổn định trật tự xã hội.

- Ý kiến thứ hai: đề nghị sửa đổi một cách cơ bản Chương XIV của Bộ luật Lao động hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động và việc sửa đổi Chương này vào năm 2006 là chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, do đó, tình hình tranh chấp lao động và đặc biệt là đình công không theo thủ tục luật định vẫn diễn biến phức tạp. Vì vậy, cần tiếp tục sửa đổi toàn diện Chương XIV nhất là các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động và đình công.

Về vấn đề này, Chính phủ cho rằng, ý kiến thứ nhất là phù hợp bởi các lý do sau:

- Thứ nhất, tranh chấp lao động, trong đó có đình công là vấn đề có tính chất kinh tế - xã hội và xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, có nguyên nhân cơ bản như: quản lý nhà nước về lao động, gồm có việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật về lao động; ý thức tuân thủ pháp luật của cả người sử dụng lao động và người lao động; chính sách quá coi trọng thu hút vốn đầu tư mà chưa quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề lao động – xã hội phát sinh trong quá trình đầu tư; chính sách về tiền lương; đặc biệt là việc thiếu đại diện của tập thể lao động để thương lượng, đối thoại với người sử dụng lao động .v..v... Do đó, để hạn chế tranh chấp lao động và đình công cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Trong đó, có giải pháp hoàn thiện pháp luật.

- Thứ hai, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) lần này đã có nhiều quy định phòng ngừa tranh chấp lao động như: tăng cường cơ chế đối thoại giữa người lao động và tập thể lao động; quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của người sử dụng lao động; cho phép tập thể lao động ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn bầu người đại diện hoặc đề nghị công đoàn cấp trên trực tiếp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quy định rõ hơn, cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động, đặc biệt là trong các vấn đề về tiền lương, thời giờ làm thêm.

- Thứ ba, riêng về Chương XIV, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung, trong đó có 7 nội dung cơ bản cho phù hợp với tình hình thực tiễn như nêu ở trên.

Trên đây là nội dung chủ yếu của Bộ luật Lao động (sửa đổi) và một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau cần xin ý kiến Quốc hội.

Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định./.





Nơi nhận:

- Như trên;

- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng;

- Văn phòng Trung ương Đảng;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Văn phòng Quốc hội;

- Các Ủy ban của Quốc hội: CVĐXH, PL;

- Bộ Tư pháp;

- Bộ LĐTBXH;

- VPCP: BTCN;

Các PCN: Kiều Đình Thụ,

Nguyễn Hữu Vũ.

Các Vụ: KGVX, KTTH, QHQT, PL;

- Lưu VT, PL: (3). 250



TM. CHÍNH PHỦ

TUQ. THỦ TƯỚNG

BỘ TRƯỞNG

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

(đã ký)

Phạm Thị Hải Chuyền



Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments -> 108
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung
108 -> Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo đánh giá tình hình thực thi Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật như sau

tải về 108.4 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương