Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học



tải về 130.44 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích130.44 Kb.
#10725
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI PHẬT GIÁO

A. SƠ LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

1. Khái niệm triết học:

Triết học, một môn khoa học được hình thành từ rất sớm và là mẹ đẻ của các môn khoa học khác hiện nay như: y học, tâm lý học, xã hội học, kinh tế học, chính trị học…... mà chiếc nôi của triết học phải nói đến Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung Quốc. Triết học được hiểu theo nghĩa là sự thông thái, sự hiểu biết về nhân sinh và vũ trụ.

Ở Trung Quốc được gọi là Triết nghĩa là Trí Tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người và thế giới. Còn ở Ấn Độ thì gọi (triết học) là Dar’sana nghĩa là chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp, theo tiếng Latinh từ triết học là Philosophia nghĩa là yêu thích sự thông thái, "ái trí", nó vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khác vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.

Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.



2. Chính trị xã hội là gì?

Politics: chính trị trong ngôn ngữ phương tây ngày nay bắt nguồn từ chữ Hy Lạp. Polis = thành quốc. (Thành Quốc Athens, – một thành quốc đã trải qua đủ loại chính thể).

Thuật ngữ “Chính trị” có lẽ được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại bởi Aristotle-một triết gia Hi Lạp cổ đại, đặc biệt nó còn là tựa đề cho một tác phẩm nổi tiếng và nhiều ảnh hưởng của ông –cuốn “Politics” (Chính trị luận).

Tuy nhiên từ “Chính trị” và các vấn đề chính trị cơ bản như quyền lực và tổ chức nhà nước đã được tiếp cận bởi các triết gia khác như Khổng Tử, Plato….Dù Aristotle đã khẳng định con người là động vật chính trị, mọi công dân có đạo đức (không phải là nô lệ hay phụ nữ) đều có quyền tham gia chính trị, nhưng một điểm chung lớn trong lý luận của các triết gia cổ đại này là quyền lực chính trị tốt nhất nên được nắm giữ bởi những ông vua thông thái!

Vì thế chính trị ở đây có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý thành bang của một nhà lãnh đạo lỗi lạc, xuất chúng hay là khoa học giành và nắm giữ vương quyền trong thiên hạ.

Dưới nhãn quan này đại bộ phận dân chúng bị gạt ra bên lề của các cuộc chơi chính trị. Rồi khi có được quyền lực trong tay những kẻ cầm quyền đã tạo nên bao nhiêu sự tha hóa, mục ruỗng trong bộ máy lãnh đạo và bao nhiêu vấn nạn quốc gia mà hậu quả của tất cả vấn đề này đổ cả lên đầu người dân. Từ đó mặc nhiên chính trị được hiểu như một thứ xấu xa, là đặc quyền của kẻ thống trị, đối kháng với lợi ích và cuộc sống bình dị của người dân.

Khi nền văn minh nhân loại đã bước qua một trang mới hoàn toàn khác, cùng với sự ra đời của nhiều luận thuyết cổ vũ cho chủ nghĩa tự do. Mà một sự cổ vũ to lớn cho lý tưởng này là sự ra đời của một nhà nước hiến pháp đầu tiên trên thế giới-Nhà nước Mỹ khẳng định quyền sống, quyền tự do, an ninh than thể, quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận…

Từ đây cả thế giới làm quen với một lý thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, nhà nước không phải là một thế lực thống trị xã hội mà chính là một tổ chức quyền lực công, được người dân trao cho quyền lực để đổi lại họ được sống dưới sự bảo vệ của Nhà nước và một trật tự luật pháp do Nhà nước ban hành (luật pháp không trái với đạo đức và luân lý); và rằng quyền lực chính trị đó không thể là quyền lực tuyệt đối vì “quyền lực có xu hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối” (Lord Acton ).

Dưới nhãn quan triết học này, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng, nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Chính trị là nghệ thuật hay khoa học vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực Nhà nước nhưng nó phải bị hạn chế bằng luật pháp và được giám sát bởi người dân thông qua các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo.

Như vậy người dân mọi thành phần có đủ tư cách để tham gia gián tiếp vào nền chính trị quốc gia bằng những hoạt động xã hội cụ thể của mình; quyền tự do báo chí 1tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hiệp quốc (10 tháng 12 năm 1948). cho phép người dân phát biểu quan điểm của mình đối với tất cả các vấn đề của quốc gia; hơn nữa mọi công dân đủ tiểu chuẩn pháp quy đều có khả năng tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước một cách trực tiếp. Từ nay chính trị chẳng còn là vương quyền cha truyền con nối, cũng chẳng còn là đặc quyền của những người thuộc tầng lớp quý tộc.

Hiện nay, trên thế giới đã hình thành bốn cách hiểu khác nhau về chính trị: 1) nghệ thuật của phép cai trị 2) những công việc của chung 3) sự thỏa hiệp và đồng thuận 4) quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó.

Khoa học chính trị (các nghiên cứu về chính trị) là ngành học thuật nghiên cứu về chế độ chính trị, hành vi chính trị; miêu tả và phân tích các hệ thống chính trị và các ứng xử chính trị; nghiên cứu về việc giành quyền lực và sử dụng quyền lực. Các lĩnh vực của khoa học chính trị bao gồm: lý thuyết chính trị, triết học chính trị (tìm kiếm các nhân tố cơ bản cho chính trị), giáo dục công dân, các hệ thống chính trị của các quốc gia, phân tích chính trị, phát triển chính trị, quan hệ quốc tế, chính sách ngoại giao, quân sự và pháp luật.



Vấn đề xã hội: "Xã hội là một tập thể hay một cộng đồng những người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hóa."

Nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học; cụ thể là trả lời các câu hỏi:

Trong ngôn ngữ thông thường, "triết học chính trị" chỉ có nghĩa chỉ quan điểm chung, hoặc niềm tin hay thái độ đạo đức cụ thể về chính trị mà không nhất thiết thuộc về chuyên ngành nào của triết học.

B. VÀI QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI

QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

1. Socrates (470 BC – 399 BC ) - Triết gia vĩ đại nhất thời Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn thuộc phái biện thuyết trong trường phái triết học phương Tây. Ngưòi ta xem ông như là người đầu tiên thiết lập nền triết học đạo đức - người đề ra phương pháp tiếp cận chân lý bằng cách liên tục đặt câu hỏi và trở thành con người gây tranh cãi kịch liệt. Câu hỏi của Socrates: Công lý là gì? Quan điểm của ông là chúng ta hãy thương xót kẻ gây ra điều bất công chứ không phải là nạn nhân của bất công. Theo ông, Luận điểm cơ bản của đạo đức học duy lý cũng được vận dụng vào lĩnh vực chính trị. Phẩm hạnh (đức hạnh) chính là cách diễn đạt khác của tri thức về chính trị. Socrates là người muốn duy lý hóa nhà nước, muốn những người điều hành công việc quốc gia phải thật sự có tri thức, hiểu biết. Socrates đã nâng sự lý giải vấn đề đạo đức - chính trị lên trình độ khái niệm, chứng minh. Về mặt triết học tính chất khách quan của phẩm hạnh, chính trị, pháp quyền, đối lập với chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa chủ quan của phái biện thuyết. Socrates : Luận điểm cơ bản của đạo đức học duy lý cũng được vận dụng vào lĩnh vực chính trị. Phẩm hạnh (đức hạnh) chính là cách diễn đạt khác của tri thức về chính trị. Socrates muốn duy lý hóa nhà nước, muốn những người điều hành công việc quốc gia phải có tri thức, hiểu biết. Socrates đã nâng sự lý giải vấn đề đạo đức - chính trị lên trình độ khái niệm, chứng minh về mặt triết học tính chất khách quan của phẩm hạnh, chính trị, pháp quyền, đối lập với chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa chủ quan của phái biện thuyết. Socrates có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử triết học phương Tây đã phân biệt quyền tự nhiênquyền công dân, khẳng định sự thống nhất hai quyền đó, chứ không tách rời nhau.

2. Plato (428 BC- 348 BC) với REPUBLIC, Tác phẩm vĩ đại nhất của Plato và của mọi thời đại. bàn về nhiều lĩnh vực: thần học, đạo đức học, siêu hình học, tâm lý học, giáo dục học, chính trị học, và lý thuyết về nghệ thuật. Những vấn đề của triết học hiện đại đều được đặt ra tại đây: từ những vấn đề của Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề về trở lại với thiên nhiên và giáo dục tự do của Rousseau, élan vital của Bergson và phân tâm học của Freud. Emerson đã đánh giá tác phẩm này như sau: "Trong số các tác phẩm phi tôn giáo, chỉ có The Republic của Plato là xứng đáng lời ca ngợi của Omar dành cho kinh Koran, “Hãy đốt hết các thư viện đi, giá trị của chúng đã nằm hết trong quyển sách này rồi”.”3 .

Trong REPUBLIC, Plato bàn tới các vấn đề chính trị như: con người, tổ chức quốc gia, lãnh đạo công quyền

“ Con người thế nào quốc gia thế ấy”

“ Sự sụp đổ sẽ đến khi những con buôn nhờ giàu sang mà trở thành người cai trị”

“ Chính quyền cũng biến hóa như tính tình của con người biến hóa”

“ Quốc gia được cấu tạo bởi các bản tính của những người đang ở trong nó ”

“ Tất cả các quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của người nghèo và quốc gia của người giàu, hai quốc gia ấy xung đột nhau gay gắt”

Triết học xã hội - mô hình nhà nước lý tưởng

Cũng như Socrates, mối quan tâm hàng đầu của Platôn trong triết học xã hội là vấn đề phẩm hạnh. Bốn phẩm hạnh thường xuyên được nhắc đến là tiết độ, can đảm (gan dạ), khôn ngoan, công bằng, dựa theo cách phân tầng linh hồn, phân tầng xã hội và quan hệ giữa người với người. Tiết độ là phẩm hạnh cần có đối với tất cả các công dân, không phân biệt địa vị xã hội. Can đảm không nhất thiết là phẩm hạnh phổ biến. Chỉ cần một bộ phận công dân (các chiến binh) có được nó để bảo vệ an ninh quốc gia. Khôn ngoan có thể hiện diện ở tất cả, song xét thực chất nó là đặc quyền phẩm hạnh của các triết gia. Có thể gọi công bằng là “đức hạnh xã hội”, vì nó thể hiện trong đời sống của cá nhân lẫn cộng đồng, đóng vai trò thước đo của chế độ chính trị. Platôn đưa ra các kiểu thị quốc Hy Lạp cổ đại sau đây: 1) quân chủ - sự cai trị của một người tốt, và hình thức xuyên tạc của nó - bạo chính; 2) quý tộc - sự cai trị của một số người tốt, và hình thức xuyên tạc của nó - hoạt đầu (quả đầu), hay tập đoàn thống trị bằng những phương tiện không hợp lòng dân; 3) dân chủ - sự cai trị của nhiều người, hay của toàn thể dân chúng. Có thể phân chia theo ba nhóm và các hình thức tương ứng với chúng: 1) quân chủ, gồm có quyền lực của nhà thông thái (hay quý tộc), hoặc quyền lực của kẻ độc tài (tyrannia); 2) quả đầu, hay quyền lực chính trị của những nhóm, tập đoàn nhất định, gồm có phú hào (tymokratia), quả đầu (oligarchea), và cộng hòa; 3) dân chủ (demokratia). Điều đặc biệt là Platôn không nêu lên hình thức xuyên tạc của dân chủ, mà cho rằng bản thân nó, một nền dân chủ “thuần tuý”, đã là hình thức cai trị tồi tệ nhất từ tất cả các hình thức hiện tồn (Platôn. Tác phẩm chọn lọc T. 4, M, 1994, tr. 74). Tất cả những hình thức nhà nước tốt đẹp nhất trong lịch sử vẫn chưa phải là những nhà nước công bằng lý tưởng.

Thế nào là một nhà nước công bằng lý tưởng?

Trước hết nhà nước đó phải được xây dựng từ những thành tố công dân khác

nhau, chiếm những địa vị xã hội khác nhau, thực hiện đúng những chức phận của mình tùy theo năng lực cá nhân. Công bằng không có nghĩa là cào bằng, mà “phù hợp với trật tự tự nhiên” của sự vật. Sự xác định các đẳng cấp của xã hội dựa trên sự phân chia cơ cấu linh hồn: a) các triết gia - cai trị gia,hay đẳng cấp vàng, tương ứng với phần lý trí của linh hồn; b) các chiến binh, hay đẳng cấp bạc, tương ứng với phần ý chí của linh hồn; c) những người lao động chân tay và buôn bán, hay đẳng cấp đồng và sắt, tương ứng với phần dục vọng của linh hồn. Sự phân chia đẳng cấp không chỉ dựa trên phẩm chất đạo đức, trí tuệ, mà còn nhất trí với sự phân công lao động - nền tảng của đời sống xã hội. Trong nhà nước lý tưởng quyền lực tập trung vào tay “những bậc thông thái”, những người đại diện cho trí tuệ của cộng đồng.

Tính bền vững của nhà nước đạt được “khi bằng thuyết phục, khi bằng gươm đao”. Luật pháp đưa các vĩ nhân vào bộ máy quyền lực “không phải để dành cho họ đặc quyền muốn đi đâu làm gì tuỳ thích, mà để sử dụng họ cho công cuộc kiến thiết nhà nước” (Plato, Nhà nước, quyển VII, 520a)



. Về tổ chưc đời sống xã hội, trong nhà nước lý tưởng mọi người sống có kỷ luật, các chiến binh tập trung trong các doanh trại, tách phụ nữ và trẻ em ra riêng. Gia đình theo nghĩa truyền thống không còn, mà chỉlà sự liên kết nhất thời giữa nam và nữ để sinh con

(Plato, Nhà nước, quyển V, 460c - 461e, 462 ab). Mọi tài sản của các chiến binh đều là của chung, không có tư hữu. Chiến binh chỉ có quyền sử dụng những gì thiết yếu nhất cho cuộc sống, sức khỏe và sự hoàn thành tốt nhất các chức năng của họ trong nhà nước. Họ không có nhà cửa riêng, không tài sản, không của quý. Platôn lập luận rằng, nếu chiến binh có được nhiều tiền của, họ sẽ bị cuốn theo cơn lốc của sự tư lợi, khó hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc; họ sẽ biến thành người chiếm hữu ruộng đất, thành những ông chủ, gây thù chuốc oán đối với các công dân khác. Về giáo dục, Platôn chủ trương một nền giáo dục có tính định hướng nghiêm túc, tính sàng lọc, toàn diện và liên tục, hướng con người đến lẽ công bằng và cái thiện tối cao. Giáo dục bắt đầu ngay từ lúc trẻ biết nói đến trên ba mươi tuổi. Từ ba đến sáu tuổi trẻ được giáo dục bằng những câu chuyện thần thoại, nhằm đánh thức tính tò mò, tính hiếu động, sáng tạo. Từ bảy đến mười tuổi - thể thao, từ mười một đến mười ba tuổi - tập đọc, tập viết, từ mười bốn đến mười sáu tuổi - thi ca, âm nhạc, từ mười sáu đến mười tám tuổi - toán học, từ mười tám đến hai mươi tuổi - quân sự, từ hai mươi đến ba mươi tuổi - tuyển chọn lần thứ nhất; một số thực sự có năng khiếu cầm quân được đào tạo thành các tướng lĩnh, một số khác có tư chất thông minh được đào tạo làm nhà cai trị, đồng thời tiếp tục học tập và nghiên cứu khoa học. Từ ba mươi tuổi trở đi - tuyển chọn lần thứ hai trong số những người làm khoa học. Một số không xuất sắc lắm thì an phận làm viên chức, một số khác được đào tạo tiếp, đặc biệt môn biện chứng vàmôn đạo đức để thấm nhuần tinh thần triết lý và cái thiện.

Như vậy nhà nước lý tưởng mà Platôn hình dung là một tổ chức đạo đức - chính trị hoàn hảo, giải quyết các nhiệm vụ cơ bản như đảm bảo an ninh xã hội và chủ quyền thị quốc, các nhu cầu vật chất thiết yếu và phúc lợi cho xã hội, định hướng hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học. Nguyên lý của nhà nước lý tưởng là Công bằng, mục tiêu của nó - cái thiện, phương tiện của nó - giáo dục. Platôn chủ trương một nền văn hóa đề cao cái đẹp tinh thần, lý tưởng. Có thể nhận thấy trong nhà nước lý tưởng của Platon tư tưởng nhân văn - khai sáng đan xen với một số yếu tố của chủ nghĩa cộng sản không tưởng thô thiển và chủ nghĩa quý tộc thượng lưu. Platôn phê phán nền dân chủ trong thời kỳ khủng hoảng của nó, với bốn biểu hiện là tính mâu thuẫn, tính man rợ hóa, tính thiếu quyết đoán và tính thái quá, đồng nhất bản chất của dân chủ với những biểu hiện nhầt thời, đối lập dân chủ với mô hình nhà nước lý tưởng mà thực chất là sự dung hợp tinh thần Hy Lạp thời đại anh hùng ca với chế độ quả đầu quân sự hóa tại Xpáctơ.

3. Học thuyết chính trị của Aristotle

- Xây dựng học thuyết nhà nước lý tưởng trên nền tảng bản chất con người

- Đặt vai trò và lợi ích của nhà nước lên trên quyền lợi và tầm quan trọng của cá nhân.

- Chính con người cần đến xã hội vì xã hội là một thực tại có giá trị đạo đức, phát sinh từ những yêu cầu tất yếu của nhân loại.

- Quyền công dân dành cho tầng lớp thượng

- Tầng lớp thấp buộc phải lao động không có cơ hội đạt đến hạnh phúc



4. Triết lý về luật pháp của Thánh Thomas Aquinas (1225- 1274)

- Thượng đế là nhà luật pháp tối thượng – mọi quyền lực đều xuất phát từ ý Chúa.

- Mọi quy luật cần được nhận thức theo quan điểm triết học hơn là dựa trên quan điểm thần học.

- Tự bảo toàn sinh mạng theo quy luật tự nhiên.

- Luật quốc tế được áp dụng ở các quốc gia cùng nền văn minh.

5. Triết lý chính trị của Thomas Hobbes (05/04/1588-04/12/1679) và Vấn đề khế ước xã hội :

Thomas Hobbes là một nhà triết học người Anh nổi tiếng với các tác phẩm về triết học chính trị. Cuốn sách Leviathan viết năm 1651 của ông đã thiết lập nền tàng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước xã hội.4 Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong tình trạng vô chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân. Con người qua khế ước xã hội từ bỏ những quyền tự do tự nhiên của mình để được hưởng sự an toàn và trật tự của xã hội văn minh.

Hobbes là người ủng hộ chính thể chuyên chế nhưng ông cũng phát triển các nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân tạo của địa vị chính trị (điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà nước); quan điểm tất cả quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân; và sự 4 Khế ước xã hội trong triết học và chính trị học là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng chung sống với nhau.diễn giải luật khá phóng thoáng cho phép mọi người được làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm.

- Nhu cầu tự bảo tồn.

- Quyền bình đẳng giữa con người.

- Các luật phát sinh từ khế ước xã hội.



6. Chính quyền đại biểu của John Locke (1632–1704)

John Locke với lý thuyết về quyền tự nhiên và khế ước xã hội là cốt lõi cơ bản trong quan điểm của ông về nhà nước và tổ chức nhà nước.

Ông cho rằng con người là ích kỷ và đầy ham muốn. Chính vì vậy mà ngay từ thời ở trạng thái tự nhiên, khi nhà nước chưa ra đời, con người bên cạnh quyền tự nhiên của mình đă phải tự cho mình quyền xét xử và trừng phạt kẻ khác để duy trì luật của tự nhiên. Chính vì vậy, khi xă hội văn minh ra đời với thể chế nhà nước là hệ quả của khế ước xã hội, đây là một bước tiến văn minh hơn và giúp duy trì luật của tự nhiên thông qua luật lệ của xã hội văn minh. Và ngay cả một nhà nước chuyên chế do vua chúa cai trị cũng vẫn phải thực hiện đúng các chức năng của khế ước xã hội như một chính quyền dân sự nếu không muốn bị diệt vong. Chức năng của một chính quyền dân sự hợp lẽ là phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người, tức là quyền của mỗi công dân được sống, được tự do, có sức khỏe và của cải.

Chính những khái niệm về quyền của tự nhiên, khế ước xă hội và nhiều đóng góp khác đă khiến ông trở thành một nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai sáng và ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc Cách mạng Mỹ và bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.



7. Triết lý dân chủ của Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778), sinh tại Geneva - Pháp là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên phương diện lý luận và sáng tác. Ông cũng là người sáng tạo nên cách viết tiểu sử kiểu hiện đại với trọng tâm được đặt vào tính chủ thể. Ông cũng viết tiểu thuyết và đóng góp

Ông cũng là một trong những tác giả đầu tiên phê phán thể chế tư hữu và được xem là bậc tiền bối của chủ nghĩa xã hội hiện đại và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Ông cũng là người sớm đặt câu hỏi liệu ý chí nguyện vọng của đa số liệu có phải lúc nào cũng đúng không? và mục tiêu của chính quyền theo ông là phải đảm bảo tự do, bình đẳng và công bằng cho tất cả. So với các nhà khai sáng đương thời như Voltaire và Montesquieu, tư tưởng chính trị của Rousseau cấp tiến hơn.

Quan niệm về giáo dục của Rousseau mà trong đó đối tượng của giáo dục chính là những đứa trẻ mạnh khỏe cả về thể chất và tinh thần, ông không xem trọng sự cần thiết của giáo dục qua sách vở, và nhấn mạnh sự cần thiết phải giáo dục cảm xúc cho trẻ em trước khi giáo dục lý tính đã là tiền đề cho lý thuyết giáo dục hiện đại.

8. Triết lý pháp quyền của Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1730 - 1831)

Hegel là một nhà triết học người Đức, cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Hegel được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức cho rằng, tiến bộ xã hội chính là sự vận động tiến về phía trước của cái kém hoàn thiện đến cái hoàn thiện hơn. Theo ông, cái chưa hoàn thiện mang trong mình mặt đối lập của nó - cái hoàn thiện. Cái hoàn thiện tồn tại ngay trong tiềm năng, trong tính xu hướng của cái chưa hoàn thiện. Mặc dù đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, song Hegel vẫn khẳng định rằng, mỗi thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Tuy vậy, ông lại quá tư biện đến mức coi tiến bộ xã hội chính là quá trình vận động của ý niệm. Đây là điểm mà G.Hegel thường bị phê phán là không đi xa hơn các lý thuyết thần học trung cổ về sự phát triển xã hội. G. Hegel cũng tự mâu thuẫn với chính mình trong khi cho rằng sự phát triển, theo logic nội tại của nó là vô hạn thì ông lại biện minh rằng sự tồn tại của nhà nước quân chủ lập hiến Phổ là đỉnh cao của sự phát triển lịch sử.



9. M.Weber, 1864-1920)

Tôn giáo và đạo đức là nhân tố truyền thống đối với sự tiến bộ xã hội. Trong quan niệm về tiến bộ xã hội của M.Weber có hai điều đáng chú ý. Một là, ông đã coi lý tính như là nhân tố quy định đối với văn hoá châu âu hiện đại, Hai là, Weber đặc biệt nhấn mạnh nhân tố đạo đức và nhân tố tôn giáo trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. - đó chính là nguồn gốc của những đức tính tốt đẹp của con người;



10. Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx

Karl Heinrich Marx (1818 - 1883) nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn ra trong thập niên 1840 - giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế độ tư bản. Marx được nhắc đến với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng ông nổi tiếng nhất với những phân tích lịch sử dựa trên thuật ngữ đấu tranh giai cấp, được tổng kết lại trong những lời mở đầu cho Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei): “Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp.” Ông cũng là người sáng lập Chủ nghĩa Xã hội Khoa học cùng Friedrich Engels. Tư tưởng của ông là học thuyết kế thừa các hệ tư tưởng được thành lập trong thế kỷ XIX, bao gồm triết học Đức, kinh tế học chính trị Anh hay chủ nghĩa xã hội học Pháp.

Theo Marx tiến bộ xã hội mặc dù là xu thế khách quan, song nó lại là một quá trình đầy mâu thuẫn, được thực hiện trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn; và vì vậy, trong nhận thức của con người nó lại càng là qúa trình mâu thuẫn. Mác viết: “Ỏ trong thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như có một sức mạnh thần kỳ nào đó, lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh phục được thiên nhiên nhiều hơn, thì con người lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình. Dường như ngay cả đến ánh sáng thuần khiết của khoa học cũng không thể chiếu rọi bằng cách nào khác ngoài cách chiếu rọi vào cái bối cảnh tối tăm của sự ngu dốt. Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì được ban cho một đời sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị tước mất cái mặt tinh thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn thuần. Mâu thuẫn đối kháng đó giữa một bên là nền công nghiệp hiện đại và khoa học với một bên cảnh bần cùng hiện nay và sự suy đồi, mâu thuẫn đối kháng đó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội trong thời đại chúng ta là một sự thật rõ ràng, không tránh khỏi và không thể chối cãi được ". 1

Trong thời đại Marx sống, có lẽ chủ nghĩa tư bản đã đạt thắng lợi tuyệt đối. Tuy nhiên, Karl Marx và người bạn thân là Friedrich Engels đã thực hiện “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào năm 1848, nói cách khác là hai ông đã lên án những bất công trong chế độ tư bản. Với Tuyên ngôn này, tư tưởng XHCN bắt dầu hình thành. Nhà triết học người Đức này cho rằng cách hiểu của Hegel về sự phát triển của lịch sử loài người là đúng. Tuy nhiên, mặt khác ông cho rằng vật chất mới đóng vai trò chính yếu trong quá trình này, chứ không phải là tinh thần. Người ta nói tư tưởng của Marx là chủ nghĩa duy vật biện chứng2, lịch sử, hay khoa học. Ông cũng cho rằng, con người có thể quyết định vật chất qua việc sản xuất. Cùng với F. Engels, Marx đã xây dựng nên học thuyết vĩ đại của xã hội loài người, học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cộng sản mà Karl Marx chủ trương xây dựng chính là xã hội mà trong đó, mọi người sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc, con người được giải phóng một cách triệt để và được phát triển toàn diện.



B. TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI PHẬT GIÁO

Chúng ta cũng không nên bỏ quá nhiều công sức và thì giờ để tìm kiếm vô tận một hệ thống chính trị toàn hảo để giúp con người được hoàn toàn tự do. Tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các định chế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó được giải thoát. Nghĩa là cần phải nhìn vào nội tâm của chính mình, nỗ lực giải phóng nó ra khỏi các gông xiềng của vô minh, hận thù và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có được khi nào chúng ta dùng Chính Pháp để phát triển tâm ý qua lời nói và hành động hướng thiện, và để huân tập tâm ý, để phát triển tiềm năng tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của giác ngộ.

Đức Phật là bậc Chính Đẳng Chính Giác, vượt lên trên các chuyện lo âu của thế gian. Ngài không bao giờ dùng các thế lực chính trị để truyền đạo, và Ngài cũng không bao giờ cho phép giáo pháp của Ngài bị lợi dụng cho các ý đồ chính trị. các lời dạy của Đức Phật có những tương quan với các bố cục chính trị ngày nay.

1. Nguồn gốc của quốc gia:

Theo quan điểm Phật giáo, nguồn gốc của loài người và nguồn gốc hình thành Quốc gia đều xuất phát từ lòng dục. "Do lòng dục sinh khởi quá mạnh mà có quốc gia. Quốc gia hay chính phủ là quyền thống trị được quy định bởi kết quả của dân ước, trong đó mỗi người dân đều muốn được bảo vệ quyền lợi và tài sản tư hữu của mình". (Kinh Thế kỷ, Phẩm Thế bản duyên, (Trường A Hàm, quyển 22) Như vậy chúng ta có thể bàn đến phương pháp lấy dục làm trung tâm mà hạn chế tư dục để trù mưu cuộc chung sống, chung hưởng trong một quốc gia.



2. Chính trị quan Phật giáo Đạo phật vốn không có chủ trương làm chính trị, chính trị và đạo Phật hai lối đi khác nhau. Đạo Phật chủ trương giải quyết vấn đề khổ đau, hướng đến giải thoát sanh tử luân hồi của kiếp nhân sinh, còn chính trị là những hoạt động gìn, giữ, sử dụng quyền lực của một đảng phái hay một đất nước, nghiêng về đấu tranh và dùng các thủ đoạn. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm Kết Cấm, quyển 42, có một quy định Tỳ kheo 4,5 3không nên thân cận quốc vương, nếu không có thể xảy ra 10 vấn đề bất lợi cho Tỳ- kheo và phương hại đến giáo đoàn, Kinh Trung A-hàm, quyển 49, kinh Đại Không, quy định rằng, “Sa-môn không nên bàn luận việc quốc vương, và đấu tranh…” Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 43, phẩm Thiện Ác, Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: “Các vị không nên khen hay chê việc trị quốc của vua, và không nên bàn luận thắng liệt của vua.”

C. CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO

Chính trị là một thuật ngữ không được xử dụng trong các kinh điển Phật giáo nghĩa là



  1. Đức Phật và các mối liên quan đến vấn đề chính trị 1

Đức Phật xuất thân từ giai cấp vương tướng Xã hội Ấn Độ thời đó có 4 giai cấp: Giáo sĩ (Bà La Môn), Vương tướng (Sát Đế Lợi), thương nhân (Vệ Xá), và Nông dân (Thủ Đà La). Đức Phật tất nhiên đã có nhiều liên hệ với các vị quốc vương, hoàng tử, hoàng thân quốc thích. Có thể nêu lên vài mối lien hệ điển hình như

a. Bimbisara (Bình Sa Vương): Trị vì nước Ma Kiệt Đà, là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa trị vì thời đức Phật. Ông đã cúng dường khu vường Trúc Lâm cho đức Phật và giáo đoàn. Sau khi nhà vua đã sống đời gương mẫu của một vị vua và nghiêm trì 8 giới Uposatha. Vì còn dư báo nên ông bị con là vua Ajasatthu (A Xà Thế) giết chết. Và sau vua A Xà Thế được gặp đức Phật trở thành một thiện tín lỗi lạc và tạo nhiều công đức trong cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên.

b. Vua Pasenadi Kosada (Ba Tư Nặc): Trị vì vương quốc Kosala, đóng đô tại Savatthi (Xá Vệ). Ông cùng tuổi với đưc Phật, ông đã quy y đức Phật trong những năm đầu tiên sau khi đức Phật hoằng dương giáo pháp, trong các kinh tạng Nikaya phần lớn ghi lại lời đức Phật dạy vua Kosala. Chính vấn đề an cư kiết hạ của chư Tăng do nhà vua thỉnh thị đức Phật và được đức Phật đồng ý.

c. Vua Suddhodana (Tịnh Phạn): trị vì quốc vương Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Ngài chính là cha của Thái tử Tất Đạt Đa, và được Phật giáo hóa vua cha "Hãy trang nghiêm hành chánh hạnh. Không nên dể duôi phóng dật. Người trang nghiêm giữ chánh hạnh ấy sẽ sống an vui hạnh phúc, đời này và đời sau". Khi nghe xong vua đắc các quả vị Tu Đà Hườn, sau đó là Tư Đà hàm (Sakadagami, Nhứt Lai). Khi Đức Phật giảng cho vua đoạn kinh Dhammapala Jataka (Trì Pháp Túc Sanh Truyện), thuật lại rằng trong một tiền kiếp có lần vua từ chối không chịu tin rằng con của mình chết, khi có người chỉ đống xương, bảo là xương của người con, nhưng vua không tin. Kiếp này, cũng có lần tiếng đồn Sĩ Đạt Đa đã chết khi tu khổ hạnh trong rừng già Ngài cũng không tin, khi nghe xong thời Pháp ấ, vua đắc Quả A Na Hàm (Anagami,Bất Lai), A La Lán,

d. Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La): thường được gọi là Rahulamata, hay Bimba, hay Bhaddakaccana, là con của vua Suppabuddha, trị vì dân tộc Koliya, và Hoàng hậu Pamita, em gái Vua Suddhodana. Nàng là vợ thái tử Tất Đạt Đa và sanh ra La hầu La nhưng nàng đã giữ phạm hạnh thanh tịnh kể từ khi Đức Phật xuất gia. (Chính Vua Tịnh Phạn đã thưa với Đức Phật rằng, khi công chúa nghe tin Ngài đắp y hoại sắc thì nàng cũng đắp y hoại sắc, khi được biết Ngài chỉ độ thực một lần trong ngày, nàng cũng làm như vậy; khi được biết Ngài không nằm giường cao, nàng cũng nằm dưới thấp; khi được biết Ngài từ bỏ không dùng tràng hoa và dầu thơm, nàng cũng từ bỏ những vật ấy; khi các hoàng thân quý tộc cậy người đến mai mối, nàng không màng nhìn đến người nào. Công chúa quả thật tiết hạnh vẹn toàn).

Tại Kinh Thành Kapilavatthu, Đức Phật đã thuật câu chuyện Candakinnara Jataka, nhắc lại mối liên hệ giữa Ngài và công chúa trong những kiếp quá khứ: "Không phải chỉ trong kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai."



Về sau, khi Đức vua Suddhodana băng hà, Hoàng Hậu Pajapati Gotami xuất gia Tỳ khưu ni (Bhikkhuni), Công Chúa Yasodhara cũng xuất gia và đắc Quả A La Hán. Trong hàng tín nữ, bà Yasodhara đứng đầu những vị đã chứng đắc đại thần thông (Maha Abhinna) và nhập diệt lúc bảy mươi tám tuổi.

e. Hoàng Tử Nanda, con của Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng Hậu Pajapati Gotami. Đức Phật đã giáo hóa Nanda khi Nanda đang chuẩn bị cử hành ba đại lễ quan trọng: thành hôn, phong tước và về cung điện mới.

f.Ananda là con của ông Hoàng Amitodana, một người em của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn). Như vậy Ananda là em chú bác của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự ra đời của Ngài là một đại hạnh cho hoàng tộc, vì lẽ đó, tên Ngài là Ananda. Hai năm sau khi Đức Phật Thành Đạo, Hoàng Thân Ananda xuất gia cùng với năm vị quý phái khác của dòng Sakya (Thích Ca) là Anuruddha, Bhaddiya, Kimbila và Devadatta. Không bao lâu sau khi nghe một thời Pháp của Đại Đức Punna Mantaniputta, Ngài đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti, Nhập Lưu), tầng đầu tiên 6 Bản chú giải bộ Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, ghi: "Một vị Phật chỉ có bốn đệ tử đắc đại thần thông (Maha Abhinna). Những đệ tử khác chỉ có thể nhớ được đến 100.000 Kalpa (châu kỳ), không thể hơn. Nhưng vị đắc đại thần thông có thể nhớ lại vô số kỷ nguyên. Trong thời Đức Phật chỉ có bốn vị đắc đại thần thông là hai vị đại đệ tử, vị Trưởng lão Bakkula và Đức Bhadda Kaccana, tức bà Yasodhara (Da Du Đà La). Chỉ có bốn vị ấy. trong tứ thánh. Khi Đức Phật được năm mươi lăm tuổi thì Đại Đức Ananda trở thành vị thị giả chánh thức cho đến khi Phật nhập Niết bàn.

II. Tư đức và pháp trị của người lãnh đạo quốc gia:

  1. Tư đức Kinh

Dhammapadatthakathà thuật lại rằng Ðức Phật hằng lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhơn đạo. Ý kiến của Ngài được thích dụng trong quy chế xã hội, kinh tế và chánh trị trong thời kỳ ấy. Ngài chỉ cho thấy rằng toàn cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia, như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công. Muốn cho xứ sở được thanh bình thạnh trị thì những người cầm quyền phải công minh, chánh trực. Dưới trí tuệ và lòng từ vô hạn, đức Phật hiểu rất rõ vấn đề này nên mỗi khi nói chuyện với các vị quốc vương về chính sự, đức Phật thường khuyên họ phải trau dồi tư đức. Trong bộ chú giải Jàtaka I (Chuyện Tiền Thân) II, III, V thuộc Tiểu Bộ Kinh có ghi lại mười đức của một vị vua như sau: 1. Phận sự đầu tiên là đức tính khoan dung, quảng đại, từ thiện. Vị quốc Trưởng phải là người không tham tham, không luyến ái tiền bạc của cải, mà phải sẵn sàng đem ra bồi đắp hạnh phúc cho dân lành (Dàna). 2. Phải có hạnh kiểm đạo đức cao thượng (Sìla) là không sát sanh, không dối trá, không gian tham, không lợi dụng kẻ khác, không tà dâm, không nói những điều hư ngụy, không uống vật có chất say. Nghĩa là ít nhất phải giữ Ngũ Giới. 3. Hy sinh tất cả cho việc lợi ích cho dân (Pariccàga). Sẵn lòng hy sinh sự sung sướng, tên tuổi, thanh danh và mạng sống cho quyền lợi của dân. 4. Thanh liêm, chánh trực (Ajjava). Không sợ áp lực và cũng không đặc biệt ưu đãi một ai trong khi thi hành nhiệm vụ. Phải chân thật trong ý muốn và không dối gạt quần chúng. 5. Dễ thương, ôn hòa (Maddava). Phải có đức tánh ngọt ngào, mềm dịu. 6. Khắc kỷ, nghiêm túc trong thói quen (Tapa). Phải sống giản dị, không để bị lôi cuốn trong xa xí. Phải biết mình. 7. Không ghen ghét, không ác ý, không thù hằn (Akkodha). Không tích oán, hiềm thù với ai cả. 8. Không bạo động (Avihimsa). Chẳng những không làm hại ai, mà phải tích cực biểu hiện hòa bình, cố tránh và ngăn ngừa chiến tranh cùng tất cả những gì gây ra bạo động vè giết chóc. 9. Nhẫn nại, tha thứ, châm chế, hiểu biết (Khanti). Phải có đủ khả năng chịu đựng thử thách, khó khăn, nhục mạ và không giận. 10. Không chống trả, không làm cho bế tắc (Avirodha). Nghĩa là không chống lại ý muốn của dân, không ngăn cản một biện pháp nào có thể đem lại hạnh phúc cho dân. Nói cách khác, phải một mực hòa hợp với dân.

Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 42, cáp bản tr. 449, đức Phật nói đến mười đức của một vị vua như sau: 1. Thanh liêm và khoan dung. 2. Khéo nghe lời can gián của bầy tôi. 3. Hay thi ân cho dân chúng cùng vui. 4. Việc thu thuế phải y theo pháp định. 5. Việc phòng the phải chỉnh túc. 6. Không để rượu làm rối loạn tinh thần. 7. Siêng năng, không cười đùa cợt nhã, phải giữ gìn uy nghiêm. 8. Phải xét xử theo luật pháp, không thiên vị quanh co. 9. Phải hòa hợp với quần thần không cạnh tranh với họ. 10. Luôn luôn phải để ý đến sức khỏe của thân thể. Kinh Na tiên Tỳ Kheo (Milanda Panha) có viết: "Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức, không phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy sẽ bị nguyền rủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lí vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo, cũng như những người đã vi phạm các nguyên tắc đạo đức và giới luật căn bản của xã hội loài người, sẽ bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng." Kinh Bổn Sanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnh đạo xứ sở.

Trung Bộ Kinh cũng có nói về vị quốc vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nỗ lực gìn giữ hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị quốc vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy. Ngược lại, nếu vị vua cai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúc tụng: "Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trường thọ."

Đức Phật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt. Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Khắc phục sự tham nhũng và Ngài dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái. "Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái." (Tăng Chi Bộ Kinh).



2. Pháp trị Kinh Cakkavatti Sihananda Ngài giảng thêm về cách hành xử (pháp trị) của người lãnh đạo như sau : 1. Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào. 2. Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng. 3. Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết. 4. Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải áp dụng chỉ vì người ấy có uy quyền mà phải áp dụng hợp tình và hợp lý

Hàn Phi Tử thời “bách gia phân tranh thời Tiên Trần”. Đối với việc trị nước, Hàn Phi Tử đưa ra quan điểm: “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa”. Hàn Phi khẳng định, việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi truyền thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Bởi lẽ, “…pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”. Nhờ học thuyết pháp trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc. Mặc dù vậy, cần phải thấy rằng, pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay; con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con người; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người (nhà vua). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp trị. Theo Đức Phật, Ngài đã khuyên các vị vua biết kết hợp giữa pháp trị và đức trị vì nếu chỉ nghiêng về đức thì những thành phần xấu sẽ lợi dụng lòng nhân của vua để làm loạn, còn nếu quá đặt nặng “pháp trị” mà thiếu đức thì pháp đó sẽ đem đến sự hùng cường của một đất nước nhưng lại mang tính hà khắc và tàn bạo khiến lòng người oán than. người làm vua không để cho một chút tư lợi, tư dục nào xen vào, việc thu thuế má, việc xét xử phán quyết đều y theo pháp luật. Chính trị tuy xây dựng trên tinh thần nhân ái nhưng đối với những kẻ cố tình phạm pháp thì vua phải nghiêm trị. Khi đề cập đến những hậu quả ắt xảy ra nếu người lãnh đạo không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương đã có những điều cảnh giác sau đây:

Thứ nhất, nếu nhà vua không răn cấm những kẻ ác tức là đã đi ngược lại với chính lý, phải theo đúng chính pháp mà trị dân, có theo đúng chánh pháp mới xứng đáng làm vua. Nếu không làm theo chính pháp ắt sẽ bị nhân dân lật đỗ một cách dễ dàng cũng như voi dẫm lên bông sen. Thứ hai, nếu lấy điều phi pháp trị dân thì dân sẽ làm loạn, quần thần phải chết, bản thân vua cũng chẳng yên, những kẻ địch ở ngoài xâm lược, quốc gia tiêu vong. Thứ ba, dù có mất ngôi vua, hại đến thân mệnh cũng không làm điều phi pháp. Điều tai hại nhất là dùng những kẻ xiểm nịnh, cũng như người thả voi vào vườn hoa, dùng kẻ xiểm nịnh sẽ có ngày mất ngôi vua. Nếu vua coi người thân thuộc và nhân dân đều bình đẳng, làm đúng chánh pháp, không gây bè phái, thiên vị thì danh tiếng vua được lừng lẫy. cho nên, nười làm vua phải quên mình mà mở mang chính pháp, tôn trọng chính pháp, dạy người làm mười điều lành, nếu được thế thì quốc gia phú cường, nhân dân an lạc (Tân dịch Phật Giáo Thánh Điển)

III. Các điều kiện gìn giữ nền hòa bình

1. Bảy pháp kiện toàn quốc gia Có lần vua Ajatasattu Vedehiputta (A-xà-thế) nước Magadha, muốn chinh phục Vaijji và tự nói như vầy: “Ta quyết chinh phạt dân Vaijji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ làm cho dân Vaijji bị hoại vong”. Sau đó vua sai đại thần là Vassakara (Vũ Xá) thay mặt vua đến vấn an và hỏi ý kiến đức Phật Sau khi nghe đại thần Vassakara thuật lại lời của vua Ajatasattu Vedehiputta hỏi, đức Phật đã trả lời rằng dân tộc Vaijji đã thực hiện đúng theo bảy pháp kiện toàn quốc gia mà đức Phật đã chỉ dạy nên rất cường thịnh không nước nào có thể đánh bại. Bảy pháp kiện toàn quốc gia này được ghi lại trong kinh Trường Bộ I, và kinh Trường A Hàm, Kinh Du Hành, Trong kinh, đức Phật không trả lời câu hỏi một cách trực tiếp mà Ngài vì muốn xác nhận điều Ngài trả lời là sự thật qua việc hỏi A Nan, để chính A Nan xác nhận và chứng minh điều đó là một sự việc đã và đang xảy ra của đất nước Vaijji: - Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không? - Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.

- Này Ananda, khi nào dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vaijji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết không? - Bạch Thế Tôn, con có nghe … - Này Ananda, khi nào dân Vaijji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vaijji sẽ được cường , không bị suy giảm. Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji không ban hành những luật lệ không được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vaijji như đã ban hành thời xưa không? Và cứ thế, đức Phật cứ hỏi và Ananda lần lượt xác chứng có nghe dân Vaijji đã và đang thực hiện bảy bảy pháp môn bất thối đó. Ở đây người viết không nêu ra hết nguyên bản và chỉ tóm lại ý chính của Bảy pháp kiện toàn quốc gia như sau: 1. Phải thường hay tụ họp. 2. Tụ họp đông đảo với nhau trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết. 3. Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân tộc mình đã ban hành thời xưa. 4. Phải tôn sùng và kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Trưởng lão và nghe theo lời dạy của những vị này. 5. Không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình. 6. Tôn sùng, kính trọng, đãnh lễ cúng dường các tự miếu ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không phế bỏ những cúng lễ đã cúng từ trước đúng với quy pháp. 7. Bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán trong đất nước, các vị A-la- hán chưa đến, sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc. Nói xong bảy pháp này xong đức Thế Tôn xác nhận khi nào dân Vaijji duy trì bảy pháp bất thối này thì dân Vaijji được cường thịnh, không bị suy giảm. Khi được nghe Thế Tôn nói như vậy, đại thần Vassakara bạch Thế Tôn: “ Tôn giả Gotama, nếu dân Vaijji chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vaijji nhất định được cường thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajatasattu Vedehiputta (A-xà-thế) vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vaijji ở chiến trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián…”

2. Bảy pháp bất thối hay bảy pháp làm hƣng thịnh tăng đoàn (Kinh Du Hành - Trường A Hàm) 1- Các Tỷ-kheo cần phải thường xuyên tụ họp, và tụ họp đông đảo để giảng luận Chánh pháp, khiến cho có sự hòa hợp trên dưới của các Tỷ-kheo. 2- Các Tỷ-kheo phải tụ họp trong tinh thần hòa hiệp, giải tán trong tinh thần hòa hiệp, và chấp hành Tăng sự trong tinh thần đoàn kết. 3- Chúng Tỷ-kheo không ban hành những luật lệ không thích hợp, những luật lệ không đáng được ban hành; và cũng không bãi bỏ những luật lệ đã được ban hành từ trước; sống đúng những gì đã được quy định bởi cộng đồng Tăng lữ. 4- Các Tỷ-kheo luôn luôn phải kính trọng, phục vụ các Tỷ-kheo trưởng lão, những vị có nhiều kinh nghiệm tu tập trong Chánh Pháp Luật, sẵn sàng nghe theo những lời khuyên dạy của các bậc trưởng thượng như thế. 5- Các Tỷ-kheo sống không bị lôi cuốn bởi những tham ái. 6- Trú xứ cộng đồng các Tỷ-kheo luôn luôn là những trú xứ nhàn tịnh. 7- Các Tỷ-kheo sống an trú trên chánh niệm tạo thành một cộng đồng sinh động, khiến cho các bạn đồng tu từ những phương khác nếu chưa đến thì muốn đến, đã đến thì muốn cùng sống và cùng tu tập trong sự an lạc.



1 “ C. Mác - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại trong 1000 năm qua." Thông tin công tác tư tưởng, số 10.1999. tr. 40,

2 Phép biện chứng duy tâm: biện chứng được bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức cơ bản này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, mà người khởi đầu là nhà triết học Kant (1724-1804) và người hoàn thiện là nhà triết học Hegel. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng;

Phép biện chứng duy vật: được thể hiện trong triết học do Karl Heinrich Marx và Friedrich Engels xây dựng, sau đó được Vladimir Ilyich Lenin phát triển. Karl Marx và Friedrich Engels đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.



3 C. Mác - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại trong 1000 năm qua." Thông tin công tác tư tưởng, số 10.1999. tr. 40,


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%206 -> Triet%20hoc%20chinh%20tri%20xa%20hoi%20Phat%20giao
Triet%20hoc%20chinh%20tri%20xa%20hoi%20Phat%20giao -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%206 -> Những tài liệu tham khảo: 1/ Lối vào Nhân minh học

tải về 130.44 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương