TÌm hiểu về luật biển việt nam phần I nguồn gốc củA luật biển việt nam



tải về 185.68 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích185.68 Kb.
#13472
  1   2   3
TÌM HIỂU VỀ LUẬT BIỂN VIỆT NAM
Phần I

NGUỒN GỐC CỦA LUẬT BIỂN VIỆT NAM

LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
Luật biển là gì?

Luật biển (tiếng Anh: The Law of the Sea), là một tập hợp những chế định, quy định pháp lý dùng để điều chỉnh các quan hệ có liên quan diễn ra trên tất cả các vùng biển và thềm lục địa; nếu được ký kết, tham gia bởi các chú thể trong quan hệ quốc tế gọi là luật biển quốc tế; nếu được ban hành bởi một quốc gia gọi là luật biển quốc gia.

Luật biển quốc tế đang có hiệu lực hiện nay là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (tiếng Anh: The United Nations Convention on the Law of the Sea 1982, viết tắt là UNCLOS 1982). Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Biển quốc gia vào ngày 21/6/2012, gọi là Luật Biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2013.

Lịch sử hình thành luật biển quốc tế?

Trong lịch sử nhân loại, vấn đề mở rộng và xác định phạm vi các vùng biển thuộc các quyền quốc gia luôn luôn là vấn đề quan trọng, là đề tài phong phú và phức tạp của nhiều diễn đàn, được cả cộng đồng quốc tế quan tâm; có khi còn là nguyên nhân hoặc nguồn gốc của nhiều cuộc xung đột, chiến tranh ở những quy mô khác nhau giữa các quốc gia.

Quá trình hình thành và mở rộng phạm vi các vùng biển quốc gia gắn liền với sự hình thành và phát triển của luật pháp quốc gia và quốc tế; gần liền với lịch sử khám phá, khai thác và sử dụng biển của nhân loại.

Từ khi quốc gia xuất hiện, các quốc gia ven biển luôn có xu hướng mở rộng quyền lực ra hướng biển. Xu hướng này lại mâu thuẫn với tham vọng muốn duy trì quyền tự do hoạt động trên biển của các cường quốc hàng hải. Trong quá trình đấu tranh giữa hai xu hướng đó đã xuất hiện các nguyên tắc chế định, quy định pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia. Chính điều đó đã tạo nền móng cho luật biển ra đời và phát triển.

Thời điểm lịch sử đánh dấu sự khởi đầu hình thành và phát triển của luật biển thế giới là vào thế kỷ XVI, khi mà quyền thống trị của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trên biển đã vấp phải sự trỗi dậy của Hà Lan, với tư cách là một cường quốc hàng hải thương mại mới.

Vào thế kỷ XIX, quan niệm "quyền lực quốc gia chấm dứt tại nơi sức mạnh vũ khí của quốc gia đó hết hiệu lực" đã được cụ thể hóa bằng tầm bắn của súng thần công là 3 hải lý. Nước Anh là một cường quốc hàng hải lúc đó và đã chấp nhận nguyên tắc xác định chiều rộng lãnh hải là 3 hải lý.

Cuối thế kỷ XIX, nguyên tắc chiều rộng lãnh hải 3 hải lý không còn đủ để bảo vệ nghề cá của các quốc gia ven biển, vì vậy, nhiều quốc gia đã có những quy định khác nhau về chiều rộng của lãnh hải mình, 4 hoặc 6 hải lý, thậm chí có quốc gia còn quy định cả phạm vi bảo vệ nghề cá nữa.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1919), vào năm 1930, Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên hợp quốc (LHQ) đã triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển đầu tiên tại thành phố La Haye (tiếng Anh: The Hague; tiếng Hà Lan: Den Haag) của Hà Lan. Hội nghị này đã thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven biển đối với lãnh hải và quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, nhưng không thống nhất được chiều rộng lãnh hải.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), Hoa Kỳ khẳng định quyền bảo vệ nghề cá ở ngoài lãnh hải, đặc biệt là Tuyên bố Truman (1945) đã khẳng định chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa của mình mà theo quan niệm lúc bấy giờ thì giới hạn của thềm lục địa kết thúc ở nơi có độ sâu 200m nước. Nhiều quốc gia ven biển theo chân Hoa Kỳ đã tuyên bố chủ quyền đối với tài nguyên thềm lục địa của họ và tình hình đó đã tạo ra một vấn đề mới của luật biển quốc tế. Một số nước Nam Mỹ như Peru, Chile, Ecuador không có thềm lục địa tự nhiên, nên đã đòi hỏi mở rộng một vùng biển rộng đến 200 hải lý.

Năm 1958, để giải quyết tình trạng nói trên, LHQ đã triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất tại Genève (phiên âm tiếng Việt: Giơ-ne-vơ; tiếng Anh: Geneva) có 86 nước tham dự. Hội nghị này đã thông qua được 4 công ước quốc tế về luật biển: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật; Công ước về thềm lục địa; Công ước về biên cá. Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng chưa được giải quyết: Chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua eo biển quốc tế giới hạn vùng đánh cá, ranh giới ngoài của thềm lục địa.

Năm 1960, cũng tại Genève, LHQ lại triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ 2 để giải quyết những tồn tại nói trên. Những hội nghị này cũng không đi đến kết quả gì.

Năm 1973, LHQ lại triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ 3 để tiếp tục thảo luận và thông qua Công ước Luật Biển mới.



Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 được xây dựng, thông qua, ký kết như thế nào?

Sau 5 năm trù bị (1967 - 1972) và qua 9 năm thương lượng (1973 - 1982), trải qua 11 khóa họp, đến ngày 30/4/1982, Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ ba đã thông qua được một công ước mới, gọi là Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), với tỷ lệ 130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 17 phiếu trắng và 2 nước không tham gia bỏ phiếu. Sau đó, ngày 10/12/1982, tại Montego Bay (Jamaica), 107 đoàn đại biểu quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Công ước. Sự kiện này đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ về Luật Biển lần thứ ba, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công ước mới về Luật Biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận.

Sau Hiến chương LHQ, Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana, nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16/1l/1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 phụ lục với hơn 1.000 quy phạm pháp luật, Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, bởi Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước, mà còn là văn bản pháp lý điển hóa các quy định mang tính tập quán. Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 thể hiện sự thỏa hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước lớn hay là nước nhỏ, nước có biển hay không có biển. Công ước không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phải tham gia cả gói (package deal), có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi quốc gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.

Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; chế độ pháp lý đối với biển cả và Vùng - di sản chung của loài người và các quy định hàng hải và hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật; vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; quy chế hoạt động của Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, ủy ban ranh giới ngoài thềm lục địa, Tòa án Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước...

Phần II

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ 1982
Công ước bao gồm 17 phần với 320 điều khoản, 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng trên 1.000 quy phạm pháp luật quốc tế.

Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao hàm tất cả những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tế về biển và đại dương thế giới; trong đó quan trọng nhất là thống nhất phương pháp xác định phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển, quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia, có biển và không có biển, phát triển hay đang phát triển, trên nhiều lĩnh vực như an ninh, bảo vệ môi trường, thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa học trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, cũng như các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia.

Công ước cũng định ra trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các quốc gia bằng biện pháp hòa bình...




Quy định của UNCLOS 1982 về chiều dài các vùng nước của một quốc gia ven biển.

Một số nội dung quan trọng đã được quy định trong Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 như:

1. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Tuy vậy chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tàu thuyền nước ngoài được phép "đi qua không gây hại" trong vùng lãnh hải.

2. Phạm vi của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (ĐQKT) và thềm lục địa được xác định dựa vào và xuất phát từ lãnh thổ đất liền theo nguyên tắc "đất thống trị biển" hay dựa vào những hải đảo được xác định theo những tiêu chuẩn cụ thể do Công ước quy định; nhưng đối với đá không thích hợp cho con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng ĐQKT hoặc thềm lục địa.

3. Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan, gần gũi về mặt địa lý, địa chất, lịch sử... và những vùng nước tiếp liền, thì có chủ quyền đối với vùng biển nằm trong các đường cơ sở quần đảo thẳng được vẽ bởi các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước quần đảo; các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tàu thuyền và hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các quần đảo bằng các tuyến đường biển đã định.

4. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng ĐQKT rộng tối đa 200 hải lý tính từ đường cơ sở, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống.

5. Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng ĐQKT của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.

6. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy và lòng đất dưới đáy biển của quốc gia ven biển) trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa.

Thềm lục địa có thể mở rộng ra ít nhất là 200 hải lý từ đường cơ sở và nếu sự mở rộng vượt quá 200 hải lý thì thềm lục địa có thể mở rộng ra đến một giới hạn được tính toán theo những tiêu chuẩn địa chất, địa mạo đáy biển theo quy định của Công ước, nhưng không vượt quá khoảng cách 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc các đường đẳng sảnh 2.500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý.

Quốc gia ven biển chia sẻ với cộng đồng quốc tế phần lợi ích thu được do khai thác tài nguyên từ bất cứ khu vực nào trong thềm lục địa của quốc gia đó khi nó vượt quá 200 hải lý. Ủy ban ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982) sẽ có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới ngoài của thềm lục địa khi nó mở rộng quá 200 hải lý.

7. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển.

8. Các quốc gia có các vùng biển và thềm lục địa nằm trong biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sinh vật, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học.

Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó.

9. Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng ĐQKT và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hòa bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết.

Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện "công bằng và hợp lý" có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.

10. Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước. Một trong những biện pháp hòa bình đó là có thể đưa tranh chấp ra các cơ quan tài phán quốc tế theo quy định của Công ước.

Sau khi Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 ra đời và có hiệu lực, các quốc gia ven biển đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định của Công ước Quy chế pháp lý đối với các vùng biển và thềm lục địa đã trở thành nội dung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Lưu thông hàng hải qua vùng lãnh hải và các dải hẹp giờ đây đã được điều chỉnh dựa trên các nguyên tắc pháp lý.

Các quốc gia ven biển đã tận dụng các điều khoản lợi thế cho phép mở rộng vùng ĐQKT ra tới 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Quyền của các quốc gia không có biển được đi ra biển, tiếp xúc với biển cũng được quy định một cách rõ ràng. Quyền được tiến hành các nghiên cứu khoa học biển giờ đây được dựa trên các nguyên tắc mà không thể vì lý do gì để từ chối.

Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương đã được thành lập năm 1994, đang thực hiện chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động dưới biển sâu ngoài vùng thuộc quyền tài phán quốc gia, nhằm điều hành việc khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên của biển.

Tòa án Luật Biển quốc tế cũng đã được thành lập năm 1996 và có quyền lực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển phát sinh từ việc giải thích và áp dụng Công ước.

Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, phần XI của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 liên quan đến quy chế pháp lý đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia (Công ước gọi chung là "Vùng"), đặc biệt là việc khai thác các quặng nằm sâu dưới đáy đại dương, đã làm dấy lên nhiều lo ngại từ các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ.

Để đạt được sự tham gia rộng rãi hơn của các nước đối với Công ước, Tổng Thư ký LHQ đã chủ động tiến hành một loạt các cuộc tham vấn không chính thức giữa các quốc gia để giải quyết các lo ngại này. Sự tham vấn đã kết thúc bằng việc các nước đạt được thỏa thuận vào tháng 7-1994, gọi là "Thỏa thuận liên quan đến việc thực hiện phần XI của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982".

Thỏa thuận này được coi là một bộ phận của Công ước và đã mở đường cho tất cả các nước tham gia hoặc phê chuẩn để trở thành thành viên của Công ước.
Phần III

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LUẬT BIỂN VIỆT NAM
Luật Biển Việt Nam ra đời là quy trình nội luật hóa Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) mà Việt Nam đã ký kết và chính thức phê chuẩn. Đồng thời, nó cũng thể hiện trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong việc triển khai, tổ chức, thực hiện UNCLOS 1982 với tư cách quốc gia thành viên. Đây là sự kiện pháp lý rất quan trọng của qui trình xây dựng luật pháp của Nhà nước Việt Nam trong mối liên quan với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn. 

Luật Biển Việt Nam là công cụ pháp lý quan trọng để điều chỉnh mọi mối quan hệ đa dạng và phức tạp đang diễn ra trong các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.



Căn cứ vào lịch sử quản lý biển của Nhà nước Việt Nam, có thể chia ra các thời kỳ như sau:

- Thời kỳ trước năm 1884: Các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã quan tâm đến việc khai thác và quản lý biển: Chủ yếu là tổ chức khai thác các nguồn lợi từ biển như mở cửa thông thương với các nước khác: Vân Đồn (thế kỷ XI-XV), Hội An (thế kỷ XVII-XVIII). Sự phát triển thương mại thông qua đường biển đòi hỏi phải triển khai các hoạt động tương ứng nhằm quản lý biển và chống nạn cướp biển trên các cùng biển tiếp giáp với đất liền và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

- Thời kỳ thuộc Pháp (1884-1954): Ngay sau khi thiết lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ, chế độ bảo hộ tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Pháp đã chú trọng tới việc áp dụng các luật lệ về biển của "mẫu quốc": Nghị định ban hành ngày 09-12-1926 quy định áp dụng Luật ban hành ngày 01-3-1888 cấm người nước ngoài đánh cá trong lãnh hải rộng 3 hải lý cho các thuộc địa của Pháp.

Ngày 22-8-1936, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp ký ban hành nghị định quy định vùng đánh cá Đông Dương là 20km tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất. Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam tổ chức bảo vệ quản lý, như: Đồn trú, tuần tra, thành lập đơn vị hành chính, xây trạm khí tượng, đài vô tuyến điện, trạm đèn biển…

- Thời kỳ 1954-1976: Việt Nam Cộng hòa (VNCH) với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo quy định của Hiệp định Genève, là thành viên của hơn 30 tổ chức quốc tế, đã có mặt tại Hội nghị của Liên hợp quốc (LHQ) về Luật Biển lần thứ nhất tại Genève năm 1958. Bằng Tuyên bố ngày 27-4-1965, VNCH đã chính thức thiết lập chiều rộng lãnh hải rộng 3 hải lý.

Ngày 01-4-1972, VNCH tuyên bố vùng đánh cá đặc quyền rộng 50 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Năm 1967, Tổng thống VNCH đã tuyên bố về thẩm quyền riêng biệt và quyền kiểm soát trực tiếp trên thềm lục địa tiếp giáp với lãnh hải. Năm 1970, VNCH thông qua Luật Dầu khí.

Ngày 09-6-1971, công bố sơ đồ phân chia 33 lô dầu khí trên thềm lục địa theo quan điểm đơn phương của mình. Trong thời gian này, Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH) chưa đưa ra yêu sách và chưa công bố một văn bản quy phạm pháp luật nào về biển, ngoại trừ đã ký một số hiệp định nghề cá trong vịnh Bắc Bộ với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) vào các năm 1957, 1960 và 1963.

- Thời kỳ sau năm 1976: Sau khi chính quyền VNCH sụp đổ vào năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) trở thành người đại diện chính thức của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Vì vậy, tại phiên họp ngày 07-5-1975, Ủy ban kiểm tra tư cách thành viên tham gia Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ ba đã tuyên bố công nhận quyền đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN. Sau khi thống nhất đất nước, quyền đại diện tham gia hội nghị này là Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam). Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị đã ủng hộ việc xác lập lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý theo như tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12-5-1977. Việt Nam đã trở thành nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á thiết lập vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý.

Về thềm lục địa, Việt Nam khẳng định quan điểm dựa theo nguyên tắc kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển ra cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Việt Nam cũng tham gia vào nhóm ủng hộ nguyên tắc công bằng áp dụng trong phân định các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các quốc gia ven biển đối diện hoặc kế cận.

Ngày 12-11-1982, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Theo đó, đường cơ sở của Việt Nam là hệ thống đường cơ sở thẳng gồm 11 đoạn đi từ điểm 0 nằm trên đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai (Cam-pu-chia) qua các điểm A1 - A11 nối liền các đảo chạy dọc theo bờ biển Việt Nam, trừ phần trong vịnh Bắc Bộ.

Tuyên bố cũng nêu rõ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn bản tiếp theo phù hợp với 5 điểm của bản Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ Việt Nam với nội dung các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.

Ngày 23-6-1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: "Bằng việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, nước CHXHCN Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển".

Quốc hội khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.

Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Đông trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven Biển Đông đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Ngày 21-6-2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Luật này gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2013. Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được khẳng định từ Điều 1 của Luật Biển Việt Nam. Bộ luật này được soạn phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.



Mối quan hệ giữa Luật Biển quốc tế và Luật Biển Việt Nam

Luật Biển Việt Nam được ban hành là sự kiện pháp lý rất cần thiết và quan trọng của quy trình xây dựng luật pháp của Nhà nước Việt Nam trong mối liên quan với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Có 3 lý do để lý giải về sự kiện này, đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ giữa Luật Biển Việt Nam và Luật Biển quốc tế:




Các vùng biển theo Công ước Luật Biển 1982.

- Sau khi ký Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, năm 1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn và đã chính thức trở thành thành viên của Công ước. Việc nhanh chóng nội luật hóa, biến các quy định của Công ước thành quy định của nội luật là yêu cầu tất yếu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ thực hiện.

Tất nhiên, mọi quy định của Luật Biển Việt Nam không được trái với những quy định của Luật Biển quốc tế mà chỉ được phép cụ thế hóa các chế định, quy định của Luật Biển quốc tế.

- Trước khi Hội nghị Luật Biển của LHQ lần thứ ba thông qua Công ước, để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động trên biển, Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật về biển, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, chưa thích hợp để xử lý mối quan hệ ngày càng phát triển, các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên biển, đặc biệt trong tình hình tranh chấp phức tạp thì các văn bản đó chưa đáp ứng được.

Do vậy, không thể không có Luật Biển quốc gia để đáp ứng tất cả đòi hỏi đó và hơn nữa, điều đó cũng thể hiện trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của Công ước.

- Xu hướng thế giới hiện nay là hướng ra biển và đại dương. Trên thực tế, việc khai thác nguồn lợi đại dương, từ giao thông hàng hải, tài nguyên sinh vật và không sinh vật, khai thác dầu khí càng ngày càng phát triển, đưa đến lợi ích rất lớn với quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam, một quốc gia ven biển có bờ biển dài, vùng biển rộng.

Sự nghiệp phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trong tình hình hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải vươn ra biển để khai thác và bảo vệ, quản lý biển là đòi hỏi tất yếu. Nếu không kịp thời có luật điều chỉnh ngay những hoạt động đó phù hợp luật pháp quốc tế, phù hợp quan hệ chính trị ngoại giao trong khu vực và các nước thì dễ dẫn tới xung đột, mà nguy cơ xung đột không chỉ ảnh hưởng tới khu vực và thế giới, mà chính là lợi ích của đất nước và người dân.



tải về 185.68 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương