Tìm hiểu giao thức xác thực radius và radius server giao thức radius



tải về 1.66 Mb.
trang1/14
Chuyển đổi dữ liệu15.10.2022
Kích1.66 Mb.
#53568
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
TÌM HIỂU GIAO THỨC XÁC THỰC RADIUS VÀ RADIUS SERVER

  1. TÌM HIỂU GIAO THỨC XÁC THỰC RADIUS VÀ RADIUS SERVER

    1. Giao thức RADIUS

      1. Tổng quan về giao thức RADIUS


RADIUS là một giao thức sử dụng rộng rãi cho phép xác thực tập trung, ủy quyền và kiểm toán truy cập cho mạng. Ban đầu được phát triển cho thiết lập kết nối từ xa. Radius bâu giờ thì hỗ trợ cho máy chủ VPN, các điểm truy cập không dây, chứng thực chuyển mạch internet, truy cập DSL, và các loại truy cập mạng khác. RADIUS được mô tả trong RFC 2865, "Remote Authentication Dial-in User Service (RADIUS), (IETF Draft Standard) and RFC 2866, "RADIUS Accounting" (Informational).
      1. Giới thiệu


Có 2 loại giao thức RADIUS mô tả về:
Giao thức RADIUS 1: Xác nhận quyền (authentication), phân quyền (authorization), thông tin cấu hình giữa máy chủ quản lý truy cập (NAS-Network Access Server) mà có các yêu cầu cần xác nhận và máy chủ xác nhận quyền dùng chung (Shared Authentication Server).
Giao thức RADIUS 2: Thông tin về tài khoảng giữa NAS và máy chủ quản lý tài khoản dùng chung.
      1. Tính chất của RADIUS


RADIUS thực ra là một giao dịch được xây dựng trên giao thức có các tính chất chính như sau:
Nếu như yêu cầu (request) gởi tới máy chủ xác nhận quyền sơ cấp (primary authentication server) thất bại, thì yêu cầu này phải được gửi tới máy chủ sơ cấp (secondary server). Để thực hiện yêu cầu này, một bản sao yêu cầu phải được lưu trên lớp transport để cho phép việc truyền luân phiên. Điều này có nghĩa là phải có timers cho việc truyền lại (retransmission).
Các đòi hỏi về thời gian của RADIUS rất khác biệt so với TCP. Một mặt, RADIUS không yêu cầu “câu trả lời” (responsive) về việc dò tìm dữ liệu bị mất. User sẵn sang chờ trong nhiều giây để cho việc xác nhận quyền được hoàn thành. Việc truyền lại thường xảy ra đối với các TCP dựa trên thời gian truyền nhận trung bình không cần thiết nữa, kể cả thời gian hao tổn cho việc nhận biết phản hồi về. Mặt khác, user không thể chờ đợi quá lâu trong nhiều phút cho việc xác nhận quyền. Việc phải chờ đợi quá lâu là không hữu ích. Việc sử dụng luân phiên nhanh chóng các server sẽ cho phép user truy cập được vào mạng trước khi họ bỏ cuộc.
Trạng thái rất tự do của RADIUS đã đơn giản hóa việc sử dụng UDP. Các client và server có thể đăng ký vào hoặc ra khỏi mạng. Hệ thống bị khởi động lại vì một lý do nào đó, như: Nguồn điện bị mất…Các sự kiện bất thường này nói chung sẽ không gây nguy hiểm nếu như có những timeout tốt và xác định được các cầu nối TCP đã bị đứt. Tuy nhiên UDP hoàn toàn bỏ qua các sự cố đặt biệt này; Các client và server có thể một “ chuyến vận chuyển dữ liệu” UDP ngay lập tức và để nó tự nhiên truyền trên mạng với các sự kiện có thể có.
UDP đơn giản hóa việc thực hiện server. Ở những phiên bản trước, server được thực hiện đơn luồng (single thread), có nghĩa là mỗi lúc chỉ có một yêu cầu được nhận, xử lí và trả về. Điều này không thể quản lý được trong môi trường kỹ thuật an toàn quay vòng (back-end security mechanism) dùng thời gian thực (real-time). Hàng đợi yêu cầu của server sẽ bị đầy, và trong một môi trường có hàng trăm người được yêu cầu xác nhận quyền trong mỗi phút, thời gian quay vòng của yêu cầu sẽ lớn hơn rất nhiều so với thời gian mà user chờ đợi. Do vậy, giải pháp được chọn là thực hiện server chế độ đa luồng (multu-thread) với UDP. Những quá trình xử lý độc lập sẽ được sinh ra trên server tương ứng với mỗi yêu cầu và những quá trình này sẽ trả lời trực tiếp với các NAS khách hàng bằng gói UDP tới lớp truyền dẫn chính của client.

      1. tải về 1.66 Mb.

        Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương