Tiếng Nói Chánh Thức của Liên Minh Dân Chủ vn chủ Tịch lmdcvn & Chủ Nhiệm Danh Dự: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy


Bài học lớn từ cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu



tải về 439.38 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích439.38 Kb.
#21197
1   2   3   4

Bài học lớn từ cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu

Không ai có thể phủ nhận, cố TT Thiệu là người chống Cộng kiên cường và triệt để. Trước thảm họa CS ngày nay, cá nhân tôi cũng như đồng bào càng nhớ và thương ông nhiều. Mười tám năm trước, trong lời tựa quyển Việt Nam Thắng và Bại (được trao giải thưởng Văn Học đầu tiên của Hội Quốc tế Y Sĩ Việt Nam Tự do năm 2002) tôi đã viết “Vì quyền lợi tối thượng của tổ quốc, vì thực tâm muốn rút tỉa bài học lịch sử, đôi khi chúng tôi có những phê phán gay gắt, song tận đáy lòng chúng tôi luôn ngưỡng mộ những nhân vật lãnh đạo.Vì tựu chung trong một bối cảnh lịch sử nào đó, tất cả đều làm hết chức năng của mình với sự thành tâm thiện chí mang lại những lợi ích tốt đẹp nhứt cho đất nước…Nhưng hậu quả và chung cuộc hình như không đáp ứng với kỳ vọng của con người, vì dù có thiên tài như Marx hay Lenin, họ cũng không tiên liệu hết những gì sẽ xảy ra ở tương lai. Và họ cũng không thể cưỡng lại định mạng đã an bài. Đó là thiên cơ huyền diệu, là qui luật phát triển tất yếu của lịch sử”.

Nhân mùa Quốc hận 30/4 năm nay, một số chiến hữu nhắc lại cuộc triệt thoái đau thương ở Cao Nguyên và Miền Trung đã khiến MN tự do lọt vào tay CS. Người ra lịnh triệt thoái là TT Nguyễn Văn Thiệu. Vì thế tôi có những lời lẽ gay gắt trong mấy số báo vừa qua, lên án ông đào ngũ giữa lúc đất nước lâm nguy rồi trốn chạy ra ngoại quốc. Thấy vậy mà không phải vậy. Thực sự, ông quyết tâm chiến đấu chống CS đến cùng, dù không còn lãnh đạo đất nước, ông cũng còn là một chiến sĩ VNCH. Đó cũng là quyết tâm của TT Trần Văn Hương “Nếu ý trời muốn cho nước VN này không còn nữa, thì thôi... Chúng ta sẽ cùng nhau với nước VN này mà chết”. Ông Hương hi vọng với lòng quyết tử của VNCH để bảo vệ phần đất tự do có thể làm lung lạc lương tâm TGTD.

TT Thiệu từng nói “Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỷ những gì CS làm”. Nó tàn ác lắm! Ý nghĩ này khắc sâu trong tâm khảm, khiến ông có ý nghĩ HK cũng như ông sẽ không bao giờ nhẫn tâm bỏ rơi MN tự do. Ngày từ chức, ông tuyên bố “Nếu tôi cản trở hòa bình, tôi xin từ chức để có hòa bình”. Ông từ chức, CS vẫn tấn công, CS không bao giờ muốn hòa bình. Khi đó, ông tin tưởng HK sẽ trả đũa mãnh liệt, như lời hứa của TT Nixon hồi mấy năm trước. HK sẽ đổ bộ như họ đã làm ở Triều Tiên khi CS Bắc Hàn tràn ngập lãnh thổ Nam Cao Ly ngày 25/6/1950, hoặc hồi tháng 3/1965 ở Đà Nẳng. Những ngày cuối tháng 4/1975, toàn bộ lực lượng Cộng quân BV đã xuất đầu lộ diện chung quanh Sàigòn chỉ cần B52 ra tay như hồi cuối tháng Chạp 1972 ở Hà Nội, là hủy diệt toàn bộ. Do đó khi từ chức, ông Thiệu tuyên bố sẽ trở về Quân đội tiếp tục chiến đấu. Ông sẽ cùng các chiến hữu của mình phản công giành lại lãnh thổ đã mất, khi HK can thiệp trở lại.

Việc này chỉ có thể xảy ra khi con “diều hâu” Nixon còn tại chức. Nay ông ta đã ra đi, vì chiến lược lúc bấy giờ, HK không còn cần ông nữa. Sáu năm sau một Nixon thứ hai chống CS không nhân nhượng là TT Reagan tiếp nối con đường của ông. Về phần ông Thiệu, sau khi từ chức, ông thấy HK vẫn không trả đũa. Có lẽ lúc đó ông mới nhận thức được, những nhận định từ trước đến nay của mình chỉ là ảo tưởng mà thôi. Tôi không muốn nói là sai lầm hay suy nghĩ nông cạn. Con người chỉ có thánh, họa may mới không mắc sai lầm. Sai lầm hay ảo tưởng của người lãnh đạo sẽ làm đất nước suy vong: VNCH năm 1975, LX năm 1991, rồi đây sẽ đến Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Chính ông Thiệu cũng sẽ gặp thảm họa vì ảo tưởng của mình. Ông ở lại chiến đấu trong khi mọi người bỏ chạy. Những tướng lãnh thù nghịch, những quân nhân phẩn uất vì thảm cảnh miền Trung có thể sát hại ông. Ông chết, danh dự cá nhân ông cũng như danh dự quân đội và đất nước cũng bị hoen ố. Ông có thể bị CS giết như TT Sirik Matak của Cam Bốt vài tuần trước đó, điều này sẽ làm tổn thương uy tín HK. Chả lẽ ông cũng lên trực thăng Mỹ “tháo chạy” như đồng bào và đám thuộc hạ mình? Còn gì là sĩ diện một lãnh tụ quốc gia! Nên chỉ còn con đường như ông NXP đã viết: phải tự tử để xứng danh với lý tưởng và lương tâm. Một con người hết lòng với đất nước như ông không thể chịu một số phận bi thảm như vậy. HK sắp xếp một phản lực cơ của không lực Mỹ từ Thái Lan đến Sàigòn hộ tống ông ra phi trường để xuất ngoại.

Con người không ai tránh khỏi “sanh, bịnh, lão, tử”. Lúc hưng thời ông Thiệu là nguyên thủ quốc gia, cuối đời ông không đau khổ vì bịnh tật, không lú lẫn bại liệt ở tuổi già, ông từ giả cuộc đời một cách nhẹ nhàng êm ái. Tôi tin đó là ân sủng của Thượng đế, là Hồng ân Thiên chúa đã dành cho một đứa con VN có tấm lòng với đất nước và dân tộc VN.

Nhiều người thắc mắc, ông Thiệu đã lên án Mỹ phản bội, tại sao ông đến sống ở Mỹ? Chả lẽ ông chê Đài Loan và Anh Quốc? Tôi cho rằng sự chọn lựa cuối đời, đã nói lên là tư cách lớn của ông. Ông không biết nhục sao? Ông biết, nên ông mới đến sống ở Mỹ. Biết nhục, chính là cái Dũng của vị lãnh đạo VNCH. Ông đến Mỹ không như một người tị nạn CS, cũng không phải để lập lại cuộc đời tại quê hương mới. Ông là biểu tượng của VN trong thời chiến tranh lạnh, chống CS bảo vệ tự do. Sự hiện diện của ông ở Mỹ và chết ở Mỹ để nhắc lại một quá khứ đẹp giữa hai dân tộc. Đất nước VN lâm nguy, cầu cứu Mỹ và được đáp ứng nhiệt tình: gần 6 vạn thanh niên Mỹ đã ngã gục tại chiến trường VN và hơn 30 vạn bị thương tật. Còn TT Thiệu, cả đời chiến đấu vì lý tưởng tự do và cuối cùng ông nằm xuống tại Mỹ -trung tâm điểm của TGTD khi Mỹ bỏ rơi MN tự do.

Ông đã vĩnh viễn ra đi nhưng để lại một bài học quý giá cho những người còn sống. Không bao giờ dựa dẫm vào bất cứ một thế lực nào để bảo vệ đất nước (VNCH) hay để bảo vệ quyền lực của mình (CSVN). Đó chỉ là ảo tưởng, chỉ mang lại khổ đau cho dân tộc và cuối cùng mình cũng trở thành nạn nhơn. Phải dám nhận trách nhiệm và sự thật. Người đi trước đã ảo tưởng. Kẻ đi sau cũng tiếp tục mang ảo tưởng hay sao? Tương lai đất nước là do bàn tay, khối óc dân tộc dựng xây, phù hợp với trào lưu tiến hóa của xã hội, đó là qui luật phát triển tất yếu của lịch sử. Đi ngược lại sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát.

Bài học gì từ sự sụp đổ của Liên Xô?

Tháng 12/1976, Tổng Bí thư Lê Duẩn tuyên bố trước Đại hội Đảng CSVN lần thứ IV: “Thất bại của Mỹ trong chiến tranh xâm lược VN đã đánh dấu một bước đi xuống của đế quốc Mỹ. Từ chỗ là cường quốc đế quốc chủ nghĩa số một, Mỹ đã suy yếu nhiều về quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, kéo cả thế giới tư bản lún sâu vào một thời kỳ tổng khủng hoảng toàn diện, không phương cứu chữa…Xu thế phát triển của lịch sử rõ ràng là không thể đảo ngược. Tình hình cách mạng thế giới ngày càng thuận lợi hơn bao giờ hết và đang đứng trước những viễn tượng vô cùng tốt đẹp(8) Phụ họa vào đó, tại diễn đàn Đại hội XXV Đảng CSLX (1976), Breznhev tuyên bố: “Sự bành trướng của chủ nghĩa CS trên toàn cầu là bước tiến bất phản hồi của lịch sử”. Sau ba nước ĐD đến lượt Mozambique năm 1975, Angola 1976, Ethiopia 1977, Nam Yemen 1978, Nicaragua 1979 lọt vào tay CS. Đến cuối 1979 đích thân LX đưa Hồng quân xâm lược Afghanistan. Tại Iran nhân dân Ba Tư nổi dậy lật đổ chính quyền thân Mỹ của Quốc Vương Palhavi, bắt giam toàn bộ nhân viên sứ quán Mỹ trong 444 ngày. Lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa CS đã tràn đến Trung Mỹ, Trung Cận Đông và Phi Châu.

Trước sự lớn mạnh và khuynh đảo của LX, nhân dân Mỹ bầu Ronald Reagan lãnh đạo đất nước. Trước đó, Đức Hồng Y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục địa phận Cracow (Ba Lan) được bầu làm Giáo Hoàng. Tháng 6/1979, Ngài trở về thăm quê hương. Câu giảng của Ngài “Đừng sợ hãi, hãy đứng lên” khiến giới lao động Ba Lan phấn khởi vùng lên thành lập Công Đoàn Đoàn Kết. Sự lớn mạnh của CĐĐK đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, buộc LX phải điều động chiến xa dọc biên giới để sẳn sàng can thiệp như họ đã từng làm ở Hung năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968.

Các nước ký Định ước Helsinski về An ninh và Hợp tác toàn Âu, yêu cầu LX phải tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp đối với vấn đề Ba Lan. Đức GH John Paul II cũng thông báo cho LX biết nếu họ xua quân vào Ba Lan, Ngài sẽ trở về quê hương để chịu đau khổ với đồng bào của Ngài. Riêng HK cho biết, đối với vấn đề Ba Lan, HK tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp, nhưng nếu LX can thiệp bắt buộc họ phải hành động quyết liệt.

Xin nhắc lại, khi còn tại chức, TT Nixon đã thương thảo với Brezhnev về hai điểm nóng trên thế giới, đó là ĐD và Châu Âu, nơi có hai nước bị chia cắt (Đức và VN). Hai bên chấp nhận nguyên tắc bất can thiệp để duy trì hòa bình thế giới. LX đang ủng hộ CSVN thống nhứt VN, nhưng họ sợ Tây Đức thống nhứt nước Đức. Điều này đe doạ sự tồn tại của khối Đông Âu nên LX phải ký Định ước Helsinski (Thủ đô Phần Lan) với HK, Gia Nã Đại và toàn thể 30 nước Âu châu ngày 1/8/1975. Các nước cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không vi phạm đường biên giới và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…

LX đành bất lực, điên đầu trước tình hình phát triển bất lợi ở Ba Lan. Chỉ hơn hai năm, ba lãnh tụ tối cao LX lần lượt qua đời: Brezhnev (10/11/1982), Andropov (9/2//1984) và Chernenko (10/3/1985). Gorbachev mới 57 tuổi đảm nhận trọng trách lãnh đạo LX. Đề cứu vãn chế độ, Gorbachev đành chấp nhận sự tan rã của khối Đông Âu, đồng thời đề ra các biện pháp cải cách chính trị sâu rộng như chế độ tổng thống chế được thành lập, vai trò độc quyền lãnh đạo của đảng CS bị hủy bỏ, hệ thống đa đảng được chấp nhận ở LX. Kế hoạch cải cách của Gorbachev gặp sự chống đối của nhóm bảo thủ. Dựa vào quân đội, công an và mật vụ KGB là ba công cụ chính của nền chuyên chính vô sản, nhóm cực đoan tổ chức đảo chánh, tấn công Quốc hội nơi qui tụ giới lãnh đạo cải cách. Nhưng lực lượng KGB không tuân hành lịnh nổ súng vào đám đông dân chúng bao vây Quốc hội ủng hộ phe cải cách.

Cuộc đảo chánh thất bại, LX sụp đổ cùng với khối CS Đông Âu. Biến cố này là do ảo tưởng của giới lãnh đạo cuồng tín bảo thủ, tưởng rằng HK đã suy sụp trong thời kỳ sau VN. Khi lâm vào bế tắc, họ còn (ảo tưởng) tin tưởng vào ba lực lượng chính của nền chuyên chính vô sản. Nhưng khi người dân đã thấy thảm họa trước mắt, họ ủng hộ phe cải cách, khiến quân đội, công an và mật vụ phải thức tỉnh. Họ không thể tiếp tục phục vụ cường quyền, trấn áp những người yêu nước, phải quay về với dân tộc!

Bài học từ sự phát triển của Trung Cộng

Cuối tháng Hai/1972, TT Nixon đến Bắc Kinh. Trong buổi tiếp xúc đầu tiên với Mỹ. Mao Trạch Đông đã tỏ ra thẳng thắng khi thảo luận tình hình thế giới. Nixon dò xét thái độ của Mao với câu hỏi “Nước nào trong hai siêu cường hạt nhân là nguy hiểm hơn?” Mao khôn khéo giải tỏa ngay mối lo ngại của Nixon: “Hiện nay vấn đề xâm lược do Mỹ hay xâm lược do TQ gây ra là tương đối nhỏ, vì các ông muốn rút một phần quân đội của các ông về đất mình. Còn quân đội của chúng tôi thì không kéo ra nước ngoài” Nixon hỏi “Vậy đối với TQ, sự xâm lăng từ Mỹ hay sự xâm lăng từ LX, nguy cơ nào là nghiêm trọng nhứt?’ Mao trả lời: “Nguy cơ từ Liên Xô”.

Qua đối đáp trên, cho thấy TC đã trở thành đồng minh của Mỹ. Nhưng mãi đến cuối năm 1978, sau khi CSVN và LX ký Hiệp ước hữu nghị (3/11/1978) và CSVN đưa quân vào Cam Bốt lật đổ chế độ Pol Pot (25/12/1978). BK vội vã thiết lập bang giao với HK (1/1/1979). Tháng sau Đặng Tiểu Bình đến thăm Mỹ và tuyên bố TQ sẽ đánh VN cho Mỹ coi. Về đến BK ông ra lịnh mở cuộc tấn công “dạy cho VN một bài học”. Đây là sự khiêu khích LX vì trong Điều 6 của Hiệp ước hữu nghị Việt Xô có ghi, nếu một trong hai nước bị tấn công thì coi như hai nước đều bị tấn công.

Chấp nhận đối đầu với LX, Đặng kêu gọi HK, Tây Âu và Nhựt giúp TQ thực hiện “bốn hiện đại hóa’. Đầu năm 1980, Bộ trưởng QP Mỹ Harold Brown đến BK, ông công bố quyết định xóa tên TQ trong danh sách những quốc gia thù nghịch với Mỹ: HK hợp pháp hóa việc cung cấp vũ khí cho TC. Cuối 1985, khi Chủ tịch Nhà nước Lý Tiên Niệm đến Mỹ, Quốc hội HK chấp nhận việc trao đổi nguyên tử với BK, khởi đầu việc chuyển nhượng kiến thức khoa học kỹ thuật tối tân từ HK mà TQ rất cần.

Song song với việc hiện đại hóa, Đặng chủ trương kinh tế thị trường “áp dụng kinh tế tư bản để tối tân hóa xã hội chủ nghĩa”. Áp dụng kinh tế tư bản, TQ sẽ dần dần tiến đến thể chế dân chủ tự do vì Marx đã quan niệm: “Mọi cơ cấu chính trị của xã hội đều là sản phẩm của hệ thống kinh tế xã hội đó. Do đó thống trị về mặt kinh tế sẽ thống trị cả về mặt chính trị”. Cơ cấu chính trị của xã hội tư bản là sự phân quyền, đa đảng, dân chủ tự do. Cơ cấu chính trị của xã hội CS là tập quyền, độc tài độc đảng.

Qua trình bày trên cho thấy, sự phát triển của TQ là nhờ họ khôn ngoan biết nương theo thế cờ của Mỹ trong từng giai đoạn để tiến lên. Sức mạnh của TQ ngày nay là kinh tế, TT Obama nêu ra khái niệm G2: Mỹ và TC đảm nhận vai trò lãnh đạo thế giới, viện trợ giúp các nước thứ ba phát triển mà TQ từng tự nhận là lãnh tụ. Nếu TQ vẫn nuôi tham vọng bá quyền, khống chế biển Đông, ủng hộ CSVN độc tài độc đảng, HK sẽ cùng Nhựt, Singapore…đầu tư vào Ấn Độ -một nước có truyền thống dân chủ, giúp nước này phát triển kinh tế. Ấn sẽ cung cấp cho thế giới những mặt hàng tốt hơn, vì hiện nay hàng của TQ vừa thiếu chất lượng vừa nguy hại đến sức khỏe con người. TQ tuy mạnh nhưng lại yếu vì ngày nay HK không cần đến nữa. Cựu TT Bush (cha) từng cảnh cáo: Nếu như HK có thể nuôi TQ, thì HK cũng có thể giết TQ.



Bài học về mối quan hệ TC và CSVN

Sau khi LX sụp đổ, mối bang giao Việt Trung được tái lập dựa trên cơ sở mới do Giang Trạch Dân đề ra là “Hợp tác toàn diện”. Mục đích hợp tác của Hà Nội là tìm chỗ dựa bảo vệ quyền độc tôn lãnh đạo của Đảng CSVN. Vì thế BK đã ép Hà Nội ký các hiệp ước biên giới trên bộ và biển rất thiệt thòi cho VN. Nhưng nay, liệu TC có còn muốn hợp tác nữa hay không? Họ phải cân phân sự hợp tác này có tác hại đến mối bang giao với HK hay không? Thật sự, niềm tin của CSVN vào TQ cũng chỉ là ảo tưởng. Hà Nội từng lên án TC đã ba lần phản bội CSVN mà lần sau còn lớn hơn lần trước. Sau đó TC hợp tác với Mỹ để hạ LX. Không phải TC thù hận gì CSVN hay LX, mà chỉ vì quyền lợi dân tộc mà thôi. Nghị quyết Đại hội Đảng CSTQ lần thứ XII (9/1982) chủ trương “phi Mao” (bỏ Mao) dù Mao là biểu tượng của Đảng CSTQ. Họ cho rằng đường lối của Mao sai lầm (tả khuynh, củng cố quyền lực cá nhân) nên phải “phi Mao” để thực hiện lý tưởng của Mao: TQ trở thành cường quốc số 1 thế giới với lãnh thổ bao gồm các dân tộc Thanh, Tạng, Mông, Hồi, cả ĐNÁ và biển Đông.

Trái lại CSVN lấy tư tưởng HCM làm đường hướng chỉ đạo, đặt LX, TC và Đảng CSVN lên trên dân tộc. HCM từng nói “Ai thì có thể sai chớ đồng chí Stalin và Mao thì không bao giờ sai”. Vì thế tư tưởng Mao được ghi vào điều lệ đảng Lao Động VN (CSVN) từ 1951. Năm 1975 sau khi hô hào toàn dân đánh thắng Mỹ, Lê Duẩn đưa cả nước vào quĩ đạo LX nên bị TC trừng phạt. Nay CSVN quay về thần phục TC chỉ vì Đảng CS chớ không vì lợi ích dân tộc VN. Liệu TC có ủng hộ không? Trước đây là đồng chí, là anh em mà còn phản bội, thì nay làm sao có thể ủng hộ một đảng lãnh đạo vừa phản bội dân tộc họ vừa phản bội mình đã từng cưu mang họ!

Con đường sống duy nhứt hiện nay của VN là phải đứng ngoài, cùng các nước ASEAN tranh đấu, thì mới mong giành lại biển Đông, giúp đất nước độc lập phát triển trong dân chủ tự do.



Bài học về MTGPMN

Nhân ngày 30/4, đề cập đến các phe liên hệ đến cuộc chiến VN mà không nói đến MTGPMN là sự thiếu sót bất công. Nhân ngày 30/4 năm 2007, cựu TT Võ Văn Kiệt đã nói với phóng viên Xuân Hồng đài BBC: “Tôi là người quốc gia yêu nước đi theo chủ nghĩa CS. Tôi từng coi đại đồng là lớn lắm nhưng nay tôi đặt dân tộc lên trên hết khi VN hội nhập với thế giới”. Ông là người quốc gia yêu nước theo CS nhưng trở về với dân tộc quá muộn màng. Chỉ hơn một năm sau ông từ giả cỏi đời trong khi Đảng CSVN đã cột chặt vận mạng đất nước vào tay TC.

Nhớ lại, có lẽ ông phải xót thương người đồng chí thân thiết Trần Bạch Đằng đã sớm tỉnh ngộ trước ông đến 40 năm. Trong thập niên 1960, cả hai đều là cán bộ lãnh đạo Khu ủy Sàigòn-Giađịnh. Trước khi ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ, ông HCM mở ra cuộc TCK-TKN Tết Mậu Thân. Ông Đằng đã báo cho Đại sứ Bunker biết kế hoạch này. Có lẽ ông muốn tìm một sự thoả thuận trước với Mỹ. Nếu MTGPMN giành được chính quyền, Mỹ phải thừa nhận Liên Minh Dân tộc Dân chủ và Hòa bình như là chính phủ của MNVN bao gồm các trí thức MN chưa gia nhập MTGP như Luật sư Trịnh Đình Thảo, Giáo sư Nguyễn Văn Kiết…Nếu MTGP không thắng, họ sẽ tham gia hòa đàm để giải quyết vấn đề MN bằng hòa bình.

Trong tổng tấn công Tết Mậu Thân, theo hồi ký Soldier’s Report của tướng Westmoreland, 44 ngàn quân VC trong tổng số 84 ngàn đã bị chết. Sau đó trong mấy đợt tấn công trong năm 1968, hầu như Lực lượng Võ trang MTGP đều bị tan rã, số còn lại phải chạy sang Miên. Trong hội nghị bốn bên ở Paris tháng 5/1969, Trần Bửu Kiếm -Trưởng đoàn đầu tiên của MTGP đưa ra đề nghị phù hợp với quan điểm của Mỹ: công việc MN sẽ do nhân dân MN quyết định, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Sau đó ông Trần Bửu Kiếm bị thay thế bởi bà Nguyễn Thị Bình. Người quốc gia yêu nước theo CS đã quay về với dân tộc từ bốn thập niên trước -Trần Bạch Đằng bị hạ bệ. Từ giữa thập niên 1960, ông đã là Bí thư Thành ủy Sàigòn, nhưng chưa bao giờ ông được bầu vào TƯ Đảng.



Bài học về thắng lợi của Mỹ

Việc kết thúc chiến tranh VN của Mỹ, sau đó đã ảnh hưởng nặng nề đến vận mạng các nước liên hệ đến cuộc chiến. Còn HK thắng chiến tranh lạnh, trở thành siêu cường duy nhứt. Thắng lợi đó là vì HK là một nước dân chủ tự do. Cả nước từ tổng thống, quốc hội, tòa án, tối cao pháp viện đến báo chí và người dân đều tham gia vào việc điều chỉnh chánh sách, phù họp với đường hướng chiến lược quốc gia. Nhiệm kỳ của tổng thống chỉ 4 năm, tối đa chỉ hai nhiệm kỳ. Khi tình thế đòi hỏi, Quốc hội có thể tìm một lỗi lầm nào đó, để truất quyền tổng thống. Báo chí công khai chỉ trích và truy tố chánh phủ vi phạm quyền tự do ngôn luận khi Nixon ra lịnh hai tờ New York Times và Washington Post ngưng phổ biến tài liệu Mật Lầu Năm Góc.

Kẻ thù đã lầm to, họ không hiểu sự chống đối của dân chúng Mỹ đối với chiến tranh VN là biểu hiện của nền dân chủ tự do đã đạt đến mức cao độ. Họ coi đó là dấu hiệu suy yếu của Mỹ, vì thế phải trả một giá đắc trong giai đoạn sau VN.

Quá khứ bi thảm, Tương lai huy hoàng

Năm 1975 người QG đã buông súng, họ chỉ mong CS hòa giải dân tộc, để họ góp phần xây dựng đất nước thời hậu chiến. Nhưng người CS hẹp hòi, đào sâu mối hận thù dân tộc, áp dụng chế độ độc tài của kẻ chiến thắng, giam cầm và bần cùng hóa nhân dân MN. Bị dồn vào đường cùng, họ phải bỏ nước ra đi.

Đồng bào lại được trời thương. Cao ủy Tị nạn LHQ đã sắp xếp đưa cả triệu người bất hạnh đến các nước văn minh tân tiến nhứt thế giới, chớ không phải đến các nước nghèo ở Phi Châu. Nhờ đó, ngày nay Cộng đồng Người Việt Tự do ở hải ngoại có một đội ngũ trí thức đông đảo gần 400 ngàn tốt nghiệp đại học. Chỉ riêng 2 triệu người sống ở Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, lợi tức bình quân GDP, tổng cộng lên đến khoảng hơn 80 tỉ đô la tương đương với GDP của cả nước. Ngoài ra nếu tính tích sản, thương vụ của họ có thể lên đến nhiều ngàn tỉ. Kiều bào hải ngoại sẳn sàng về giúp nước, đầu tư để phát triển quê hương bản quán của mình được sung túc giàu đẹp, chớ không như bọn tư bản ngoại quốc bốc lột nhân công VN, thu lợi nhuận mang về nước họ.

Thành phần tiên phong về nước là người già, đa số thuộc thành phần HO, dù đến Mỹ chậm trể, nhưng nay trợ cấp chánh phủ dành cho họ mỗi tháng tương đương 20 triệu đồng VN, ở Úc đến 27 triệu. Còn người đã làm việc, hưu bổng của họ nhiều hơn 4, 5 lần. Chánh phủ Mỹ có dự định mở ngân hàng ở VN để trả tiền già và hưu cho số người này. Trong cuộc sống thoải mái đó, họ sẽ hướng dẫn con cháu kinh doanh theo kiểu Mỹ, tạo công ăn việc làm cho bà con xóm giềng nếu làm ăn ở qui mô nhỏ.

Tương lai đất nước tươi sáng đang bày ra trước mắt. Cầu mong CSVN thức tỉnh, quay về với dân tộc, từ bỏ quyền độc tôn lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng, để người dân được hưởng dân chủ tự do thực sự. Tôi đề nghị giới tư bản đỏ thực hiện một cuộc “cách mạng đổi đời” không gây hận thù. Với tài sản khổng lồ, quí vị xin di dân kinh tế đến HK, Úc, Gia Nã Đại… để sống cuộc đời trưởng giả trong môi trường không bị ô nhiễm, y tế phát triển cao, xa lộ rộng lớn thích hợp các loại xe đắc tiền quí vị ưa thích. Việc trùng hưng đất nước, để kiều bào hải ngoại trở về kiến tạo lại quê hương.

Lê Quế Lâm (Sydney 30/4/2010)

Chú thích:

1- Montgomery Hyde, Stalin-The History Of A Dictator, Rupert Hart-Davis, London, 1971, P.551

2- Harry Truman, Memoirs, Doubleday & Co, Garden City, 1955, Vol II, P.106

3- André Fontaine, History the Cold War: From The October Revolution To The Korean War 1917-1950, Pantheon Books, 1968, P. 293

4- Trường Chinh, Cách mạng Dân tộc, Dân chủ nhân dân Việt Nam, Quyển II, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1975

5- Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, Tr.20

6- The Pentagon Papers Published by The New York Times, Bantam Books, NY, 1971, P.52

7- Nguyen Xuan Phong, Hope And Vanquished Reality, A publication of Center for A Science of Hope, 2001, P.74 + Báo Sàigòn Times Úc Châu ngày 18/2/2010 : Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang, Bản dịch của Phan Quân



8- Lê Duẩn, Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng ta, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, Tr. 107
oooooooooo 00000 oooooooooo


Giáo sư Robert F. Turner

Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương

LTS. Cuộc Hội Luận Kỷ Niệm 35 Năm Lưu Vong đã thực hiện hôm Thứ Tư 28-4-2010 tại Westminster, Calif. Sau đây là bài thuyết trình của Robert F. Turner đã được dịch ra Việt ngữ. Ông quan tâm về VN từ khi còn học bậc cử nhân ở đaị học Indiana University, nơi ông viết luận án dày 450 trang về cuộc chiến và được điểm danh dự, và thường xuyên tranh luận với phe phản chiến khắp hoa Kỳ. Ông vào Bộ Binh năm 1968 và tình nguyện sang VN. Từ 1968 tới 1975, ông thăm Đông Dương 5 lần, đi thăm nhiều nơi ở Nam VN, Lào và Cam Bốt. Ông viết nhiều sách về VN.

Xin kính chào quý vị.

Tôi xin được ngợi ca ban tổ chức buổi hội thảo quan trọng này và những người đã bỏ thời giờ đến tham dự một sinh hoạt tôi cho là rất quan trọng để suy nghiệm về một phần bi thảm mà cũng hệ trọng của lịch sử Hoa Kỳ.

Cách đây đúng 35 năm cũng vào ngày này, tôi rời Việt Nam lần cuối trong đợt di tản sau cùng tại Sàigon. Tôi khởi sự học hỏi về Chiến tranh Việt Nam năm 1965 khi là sinh viên đại học. Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc bảo vệ người dân Đông Dương chống Cộng sản xâm lược là việc đúng, và trong ba năm kế tiếp, tôi tham gia hàng trăm cuộc "hội thảo ngoài trời" của các đại học, hay đấu lý hoặc nhiều chương trình tranh luận.

Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi trở lại đó hai lần khi là sĩ quan Bộ binh được biệt phái vào một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng. Sau đấy, tôi còn qua Việt Nam nhiều lần khi làm cố vấn về an ninh quốc gia cho Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Hoa Kỳ. Là một thành viên của "Viện Hoover về Chiến tranh, Cách mạng và Hoà bình" thuộc Đại học Stanford ở California, hơn 35 năm trước, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về "Cộng sản Việt Nam". Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam.
Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bài thuyết trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo. Rằng đa số lập luận ngày nay cứ coi là sự "sáng suốt phổ biến" về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử.

Tôi chỉ xin đơn cử hai thí dụ:

1 - Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là "bất khả thắng". Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970. (Và khi nói "chúng ta", tôi không nghĩ rằng đấy là quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng với người dân miền Nam). Đáng buồn là dưới áp lực của cái gọi là "phong trào hòa bình", Tháng Năm năm 1973, Quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết một đạo luật cấm Tổng thống chi tiền bảo vệ nạn nhân của Cộng sản xâm lược tại Đông Dương. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội cũng ngăn cản nỗ lực tự vệ của Quân lực và người dân miền Nam khi cắt viện trợ tài chánh, xăng dầu, cơ phận và đạn dược cần thiết cho họ có thể chống đạo quân xâm lược theo lối chiến tranh quy ước đi sau các chiến xa chế tạo tại Liên Xô. Khi Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương thì Liên bang Xô viết và Trung Quốc gia tăng viện trợ cho Hà Nội.

2- Huyền thoại thứ hai mà tôi muốn nói sơ qua là Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến "phi lý" tiến hành không lý do chính đáng. Nhiều người Mỹ thành thật tin rằng chúng ta lâm chiến tại Đông Dương do hiểu lầm về vụ đụng độ ở Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng Tám năm 1964. Thật ra, như tôi có trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966 và trong cuốn sách "Cộng sản Việt Nam" xuất bản năm 1975, đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hồ Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó.

Nói cho đơn giản thì Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly năm 1950: nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc. Chuyện ấy cũng hoàn toàn phù hợp với những lý do khiến chúng ta chiến đấu trong hai cuộc Thế chiến. Tôi không có thời giờ khai triển luận điểm pháp lý này nhưng cho rằng việc ngăn chặn cộng sản tại Đông Dương cũng quan trọng như việc chống xâm lược trong các cuộc chiến khác, và nếu chúng ta không thể đương cự vào năm 1964 thì Hoa Kỳ đã thua cuộc Chiến Tranh Lạnh.

HẬU QUẢ CỦA VIỆC BỎ RƠI ĐÔNG DƯƠNG

Bây giờ, xin trở lại đề tài tôi được giao phó: là hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương cho quân Cộng sản.

Tôi làm việc trong chính phủ vào mấy năm cuối của Chiến tranh Việt Nam tới hầu hết thập niên 80. Tôi phục vụ trong Thượng viện, Ngũ giác đài, bộ Ngoại giao và tòa Bạch Cung. Sau đó trong nhiều năm tôi giảng dạy về "Chánh sách Ngoại giao Hoa Kỳ" tại Phân khoa Chính quyền và Ngoại giao của viện Đại học Virginia. Tôi có thể nói trong nhiều tiếng đồng hồ nữa về hậu quả địa dư chiến lược của việc Hoa Kỳ xoá bỏ lời cam kết bảo vệ miền Nam và các lân bang của Việt Nam. Liên bang Xô viết đã thấy ra là Hoa Kỳ có những mâu thuẫn tệ hại trong nội bộ và mất ý chí bảo vệ các đồng minh. Vì vậy, Liên Xô đã hành động:
1 - Họ bắt đầu bốc "chí nguyện quân" từ Cuba thả qua Angola để giúp phe cộng sản tại đây có thể cướp chính quyền trước các kỳ hạn bầu cử của xứ Angola. Vị Nghị sĩ của Tiểu bang của tôi đã tích cực ngăn cản các đồng viện không biểu quyết một tu chính án cắt hết ngân khoản cho mọi hoạt động của cơ quan CIA có mục tiêu yểm trợ các phe không cộng sản tại Angola. Những người chống lại quan điểm ấy - hầu hết là trong đảng đa số đã vừa trao Nam Việt Nam, Lào và Căm Bốt cho Sộng sản - thì trấn an đồng viện của họ rằng, nếu như có người Cuba tại Angola, thì sau khi ta rút quân, nhân dân Phi Châu sẽ mau chóng quăng họ ra ngoài. Trong thập niên sau đó, số cán bộ Cuba tại Phi châu da đen đã tăng tới khoảng bốn năm chục ngàn. Và nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người.

2 - Tin rằng Hoa Kỳ sẽ chẳng làm gì hết, năm 1979, Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết và gây ra lực lượng Taliban ở tại đây.


3- Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La tinh rằng tiến hành "đấu tranh võ trang" để cướp chính quyền thì cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số người lại thiệt mạng vì chuyện đó.
Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là địa dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết định của Hoa Kỳ đối với con người.
"Phong trào hòa bình" - của phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy "nhân quyền" và "ngăn nạn tàn sát". Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại khu "Little Sàigon" có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi "học giả" Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.

Hãy trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng, sau khi "giải phóng" Miền Nam, "chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học." Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.

Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm "mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia," và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo: "triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xã hội chủ nghĩa." Bài báo tuyên bố: "Với bọn phản cách mạng... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng."

Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà được phép tham gia cái gọi là Quốc hội Thống nhất" đã tuyên bố: "Chế độ mới cai trị bằng bạo lực và khủng bố... Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có tự do báo chí, hay tự do tôn giáo, hay... cả quyền tự do có ý kiến riêng... Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi."



QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ

Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sàigon của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về "quyền tự do báo chí" trong Nam. Ông viết: "Dưới bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á..." Tôi tin chắc rằng mình không là người duy nhất trong hội trường này có thể xác nhận điều ấy. Riêng Sàigòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ.


Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự do ấy, tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sàigòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ. Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như "Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân" của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về hay của Mao Trạch Đông.

Sau ngày gọi là "giải phóng", người Cộng sản chiếm đóng đã "tạm thời" đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phẩm xuất hiện "dưới chế độ cũ" đều bị cấm.



TÙ CHÍNH TRỊ

Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là "chế độ phát xít" tại miền Nam đã giam giữ hơn 200 ngàn "tù chính trị". Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào, tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.


Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của "lực lượng thứ ba" nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông ta là tìm đâu ra con số "202 ngàn tù nhân chính trị?" Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân. (Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.

Tôi cũng gặp một lãnh tụ khác của "lực lượng thứ ba" là bà Ngô Bá Thành, người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về "tù nhân chính trị" có thể gồm cả người như Sirhan Sirhan, là tay cán bộ người Palestine đã ám sát Nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích, là "chính trị" khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Rồi còn vụ "chuồng cọp" đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau:
- "... xà lim chôn dưới mặt đất, với các dóng sắt đóng trên trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được..."

- "... những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt."

- "[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người."
Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những "chuồng cọp" này. Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng  đồng ý là tôi hơn cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.

Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì để duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi là "chuồng cọp".


Ít nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng cáo giác chuyện "chuồng cọp" biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn để tự mình xem tận mắt, và anh ta có vẻ khó chịu - có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hoà ở Sàigon.

Vì vậy, sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hoà và chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây không là nơi mà mình thích sống, nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy "tiếng gào thét trong đêm vắng" hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.




NGĂN CHẶN TÀN SÁT

Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ "ngăn được nạn tàn sát". Họ sai lầm tới chừng nào.


Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hoà Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được "giải phóng" lên tới 643 ngàn.

- Khoảng 100 ngàn bị xử tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về "tiến trình hợp pháp" hay một toà án.


- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là "thuyền nhân" bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chế độ độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát, nhiều người tử nạn sau thì bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số "chết một phần ba" cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.

- Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là "A Better War" - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các "Trại Cải Tạo" do chế độ Cộng sản lập ra.

- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đẩy vào các khu "Kinh Tế Mới" để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về "Trại Cải Tạo" và khu "Kinh Tế Mới" và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.


CĂM BỐT

Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa. Khi Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 để yểm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược "phi pháp". Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là "quốc gia thành viên của Nghị định thư" - Protocole States - đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Johnson tham chiến tại Đông Dương, quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu "Protocole States" của Hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization).


Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ. Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nổi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu chính của tôi là để cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết.

Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho là có hơn hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20% dân số toàn quốc.


Một bài báo về "các vùng thảm sát" của Căm Bốt trên tạp chí National Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: "Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thì đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ đơn giản giọng chúng vào thân cây."

Ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không cộng sản ở Đông Dương: "Dù có ước lượng dè dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương bị bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu...  Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến".

Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nếu như ta muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí bình thường lại thích làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn trọng - để người khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối cùng không còn tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn.

Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì về lịch sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là "The Black Book of Communism" - "Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản". Do một nhóm trí thức Âu châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh.


Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam có thể còn bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.

Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi. Tôi yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng khi đa số của Quốc hội phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược, họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.

Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người khác. Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.

Xin cảm tạ quý vị và cầu cho Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta.



GIÁO SƯ ROBERT F. TURNER

Đại học Luật khoa Virginia.







oooooooooo 00000 oooooooooo

Mùa Quốc tang 2010

Mai Thanh Truyết

Đôi Lời Nhắn Gởi
Nhìn lại bối cảnh Việt Nam trước thềm thiên kỷ thứ ba, chúng ta thấy rằng mặc dù có nhiều cố gắng trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong những toan tính giải quyết cùng một lúc những nhu cầu của toàn quốc. Do đó, Việt Nam hiện đang đứng trước hai nhu cầu cấp bách của đất nước: nhu cầu phát triển công nghệ sản xuất để sinh tồn và nhu cầu giải quyết các phế phẩm để làm sạch môi trường do nhu cầu phát triển trên tạo ra.
Vấn đề là làm thế nào để có một cân bằng hài hòa cho hai nhu cầu trên. Nếu đặt trọng tâm vào nhu cầu phát triển và coi nhẹ nhu cầu giải quyết môi trường sẽ là một đại nạn cho Việt Nam trong một tương lai rất gần. Và nếu làm như thế, thế hệ con cháu chúng ta sẽ nguyền rủa chúng ta đã không những làm cạn kiệt tài nguyên của đất nước mà còn hủy hoại môi trường sống của thế hệ tương lai.

Nếu trái lại, đặt ưu tiên hàng đầu cho việc bảo vệ môi sinh và làm chậm mức phát triển thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân và đất nước sẽ khó phát triển đúng đắn.

Những nhà dự phóng tương lai cho Việt Nam sẽ là những người thật sáng suốt, thực tâm yêu nước và có tầm nhìn nhân bản đứng trên mọi chủ thuyết và định chế chính quyền. Vì vậy, những người có trách nhiệm với Đất và Nước Việt Nam ngày hôm nay cần phải thấu hiểu và thấm nhuần một số căn bản trong việc thanh lọc nguồn ô nhiễm tại Tâm.

Lòng tham: Một phương pháp đề nghị để thanh lọc những Ô Nhiễm trong tâm hồn của con người là dẹp bỏ lòng THAM của con người. Đức Phật dạy rằng THÂN, MIỆNG, Ý của con người hằng ngày thường tạo ra mười ác nghiệp:

· Ba nghiệp về thân là: Sát sanh, Trộm cắp, Tà dâm;

· Bốn nghiệp về miệng là: Nói dối, Nói lời đâm thọc, Nói lưỡi hai chiều, Nói lời ác khẩu.

· Ba nghiệp về Ý là: Tham, Sân, Si.

Trong mười nghiệp trên, nghiệp THAM là một trong những nghiệp nặng, vì Tham thuộc về Ý, mà Ý luôn luôn sai sử con người tạo tác ra mọi việc. Người xưa thường nói “Túi tham không đáy”. Vì tham con người có thể làm đủ mọi việc vô lương tâm để đem đồng tiền về nhét cho đầy túi tham của mình. Nhưng vì túi tham không đáy nên có bao nhiêu nhét vào cũng không đủ.

Thử bảo các nhà Đại Tư Bản: “Mỗi ngày các ông kiếm ra hằng triệu Dollars, đủ rồi, hãy ngưng đi.” Các ông ấy có ngưng không, hay kiếm được một triệu Dollars, các ông sẽ nghĩ cách làm sao mỗi ngày kiếm ra hai triệu Dollars bằng những phương pháp “Khoa Học(!)” hơn. Nhưng kiếm ra nhiều tiền để làm gì? Mỗi ngày các ông có ăn quá ba bữa cơm không? Mỗi đêm các ông có ngủ quá một chiếc giường không?

Những nhà nuôi súc vật để cung cấp thịt càng ngày càng chích những loại Hormone hoặc những loại thuốc kỳ quái vào cơ thể những con vật để cho nó tăng trọng nhanh. Chẳng cần biết hậu quả là những người tiêu thụ các loại thịt đó sẽ bị mang những chứng bệnh lạ lùng không thuốc chữa.

Những nhà làm phim ảnh, TV cũng vậy. Hằng ngày họ đầu độc con người, thanh thiếu niên bằng những loại phim dâm ô, kinh dị, những loại phim kích động lòng ham muốn đâm chém, bắn giết, đánh đấm lẫn nhau để làm trò vui. Họ làm ô nhiễm đầu óc trẻ em bằng những phim Hoạt Hình quái dị. Hằng ngày họ càng sáng tạo ra những con vật quỹ quái, dị thường rồi cho đi giết chóc tàn phá bằng những phương pháp “khoa học”. Thử hỏi đầu óc thơ ngây, trong sạch của trẻ em hằng ngày bị ô nhiễm bởi những hình ảnh kỳ quái, những tư tưởng giết chóc như thế thì thế hệ trẻ em đó lớn lên sẽ làm gì? Không cần đợi lớn lên, ngay bây giờ chúng ta cũng đã từng thấy những trẻ em mang súng vào trường bắn giết đồng bạn y như trên phim ảnh, trên TV. Tất cả chỉ vì lòng tham không đáy của những nhà làm phim ảnh, làm TV.

Pháp sư Tịnh Không, một vị Pháp sư đạo cao đức trọng hiện ở Đài Loan, trong loạt bài giảng về kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Bình Đẳng Giác Kinh, Ngài nói : Không một cường quốc nào có thể đánh bại nước Hoa Kỳ. Nước Hoa Kỳ chỉ bị đánh bại bởi TV của chính nước họ mà thôi.

Biên kiến: Một nguyên nhân khác làm Ô Nhiễm tâm hồn của nhân loại là Biên Kiến. Theo Phật giáo Biên Kiến là sự chấp thủ vào một nhận thức của mình, và cho rằng chỉ có nhận thức của mình là đúng, là chân lý, còn những nhận thức của kẻ khác đều là sai lầm. Điều này chính những tín đồ của các Tôn Giáo cũng góp phần không nhỏ vào “biên kiến” ấy. Thiền sư Nhất Hạnh nói rõ vế vấn đề này trong quyển “Tương Lai Văn Hoá Việt Nam” như sau: “Chúng ta có quyền theo đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho, đạo Cơ Đốc, đạo Cao Đài hoặc theo chủ nghĩa Mác Lê… Nhưng chúng ta không có quyền cho rằng chỉ có nếp sống ta mới có tính cách dân tộc, còn những tập đoàn khác là phi dân tộc, là phản động, là không yêu nước.”

Đến thế kỷ thứ hai mươi mốt nầy, mà còn có những người nhân danh tôn giáo mình để bắn giết những người theo Tôn Giáo khác vì cho rằng chỉ có tôn giáo mình là đúng còn những ngươì theo tôn giáo khác là tà ma ngoại đạo!

Đến thế kỷ thứ hai mươi mốt này, mà còn có những người ôm mớ tín điều hết sức sai lầm của Karl Marx ở thế kỷ thứ 18, rồi tự xưng mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, để bắt mọi người phải theo cái suy nghĩ sai lầm của mình. Đã mù mà còn đòi dắt đường. Đó là Biên Kiến, một hình thức của ô nhiễm trong tâm hồn.

Thậm chí khi biết mình đã sai lầm, phải đổi hướng chạy theo những tiến bộ của nhân loại mà vẫn cố bám víu lấy biên kiến của mình rồi sáng tạo ra những từ ngữ què quặt.  “Kinh-tế-thị-trường-theo định-hướng-xã-hội chủ-nghĩa” là một thí dụ. Ai cũng biết rằng “Kinh Tế Thị Trường” là một đường lối kinh tế theo chủ nghĩa Tư Bản (Kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản); còn Xã hội chủ nghĩa là con đẻ của chủ nghĩa Cộng sản, chủ trương kinh tế tập trung).

Thế nhưng “dưới tấm bảng chỉ đường” của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đất nước càng ngày càng lụn bại. Sau khi lên nắm chính quyền năm 1975, cường quyền đã đưa một đất nước đứng nhất nhì ở Đông Nam Á thành một trong những đất nước nghèo nhất thế giới (chỉ hơn một vài nước ở châu Phi). Để sửa đổi sai lầm đó, đám chóp bu CS cho thay đổi chính sách kinh tế thành Kinh Tế thị Trường. Nhưng để đở hổ thẹn, hay để chống chế, nhà nước CS sáng tạo ra cụm từ “Kinh-tế-thị-trường-theo-định-hướng-xã-hội-chủ-nghĩa”.

Hãy tưởng tượng đất nước Việt Nam như một cổ xe ngựa do hai con ngựa kéo với hai càng xe ở hai đầu. Con ngựa Xã Hội Chủ Nghĩa kéo đi về hướng Tây; con ngựa Kinh Tế Thị Trường kéo đi về hướng Đông. Kết quả cổ xe đó đi về hướng nào hay chỉ đứng lì một chỗ. Muốn cổ xe chạy được thì phải thí bớt một con ngựa. Thế là nhà nước CS cho giết chết con ngựa Xã Hội Chủ Nghĩa (nhưng không dám lên tiếng), vì trong mấy năm qua con ngựa này đã chứng tỏ không làm được việc. Giết chết nhưng không chịu mang xác con ngựa Xã Hội Chủ Nghĩa ra đem chôn. Vẫn đề con ngựa Kinh Tế Thị Trường ì ạch kéo cổ xe kèm theo cái xác chết của con ngựa Xã Hội Chủ Nghĩa ngay từ khi đổi mới năm 1986.

Đó là kết qủa sai lầm của Biên Kiến. Biết sai mà vẫn nắm chặt lấy chủ nghĩa của mình. Biên kiến là một yếu tố làm ô nhiễm tâm hồn. Muốn tẩy sạch ô nhiễm trong tâm phải dứt khoát dẹp bỏ biên kiến.

Luật Nhân quả: Luật nhân quả đối với đạo Phật rất quan trọng. Không có việc gì là không có nguyên nhân của nó. Lũ lụt, hạn hán là do đốn cây rừng, là do xây hồ thủy điện, là do xây dựng đê bao không đúng kỹ thuật... Tầng Ozone bị phá thủng là do con người thải những hóa chất độc hại lên không gian. Nước uống bị nhiễm độc là do con người thải ra sông, biển những chất phế thải ô uế của mình như phân, nước tiểu, độc tố hoá học của các xưởng kỹ nghệ. Không khí bị đầu độc là do khói từ xe hơi, từ các nhà máy sản xuất những mặt hàng cho con người hưởng thụ.

Ngoài ra, các nước Tư Bản giàu có hay tống khứ những hoá chất độc hại phế thải của họ đến các nước nghèo chậm tiến ở Á Phi. Họ tưởng rắng sẽ giải quyết được vấn đề ô nhiễm ở đất nước họ. Nhưng sự thật trái lại. Họ đã lầm, luật nhân quả cho biết rằng họ sẽ phải gánh chịu lấy những hậu qủa đó.



Thực tế cho thấy rằng sau khi những chất độc hại được đổ xuống vùng biển của các nước Á Phi thì cá tôm của những vùng đó bị nhiễm độc. Một số lớn cá tôm bị chết. Số còn lại bị nhiễm độc nặng, sẽ được ngư dân ở vùng đó đánh bắt và xuất cảng ngược lại vào các nước tiên tiến, và chính họ, những người đã đổ những chất độc hại xuống biển lại ăn những con cá tôm nhiễm độc đó. Gần đây những cơ quan như California Department of Health Services và những cơ quan tương tự đã đưa ra những khuyến cáo dân chúng đừng ăn những loại cá mà họ thấy rằng đã bị nhiễm độc. Rõ ràng là nhân nào quả nấy.

Để kết luận, vấn đề ô nhiễm đã được thế giới đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Những Hội nghị về giải quyết Ô Nhiễm môi sinh đã được Liên Hiệp Quốc tổ chức. Nhiều nhà khoa học trên thế giới ngày đêm dùi mài tìm những phương thức để giải quyết. Những nhà lãnh đạo Tôn giáo như Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã kêu gọi nhân loại quan tâm đến vấn đề Ô Nhiễm. Các Ngài kêu gọi nhân loại để cứu độ MẸ ĐẤT vì quả tình trái đất này, hành tinh xanh này đã nuôi nấng ta như một bà Mẹ.

Xin được nêu lên những lời dạy của Đức Phật về nguyên nhân sâu xa của vấn đề ô nhiễm, đó là TÂM ô nhiễm của nhân loại. Muốn giải quyết vấn đề ô nhiễm một cách rốt ráo không gì hơn là thanh lọc Tâm của con người.

· Bao lâu con người chưa nhận chân được giá trị của LUẬT NHÂN

QỦA,

· Bao lâu con người chưa gội rữa được lòng THAM vô tận,



· Bao lâu con người chưa gội rữa được những BIÊN KIẾN,

· Bao lâu con người chưa bỏ được lối sống ích kỹ, con người chưa có thể

giải quyết được vấn đề Ô Nhiễm Môi Trường một cách rốt ráo.
Hãy thanh tịnh Tâm để cứu độ Mẹ Đất.

Hãy thanh tịnh Tâm để cứu độ lấy hành tinh xanh của chúng ta.

Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường là nhiệm trách chung của mọi người chúng ta chứ không phải là trách nhiệm riêng tư của những nhà khoa học, của những nhà lãnh đạo tôn giáo, hay của một đảng lãnh đạo.

Mai Thanh Truyết

Kỷ niệm mùa Quốc tang 2010


oooooooooo 00000 oooooooooo
Nguyễn Thanh Khiết


tải về 439.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương