Tiếng Nói Chánh Thức của Liên Minh Dân Chủ vn chủ Tịch lmdcvn & Chủ Nhiệm Danh Dự: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy


THG chuyển ngữ oooooooooo 00000 oooooooooo



tải về 439.38 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích439.38 Kb.
#21197
1   2   3   4

THG chuyển ngữ

oooooooooo 00000 oooooooooo
Thông Tin Sinh Hoạt Tranh Đấu
Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy / Liên Đoàn Cử Tri Người Việt Bắc Cali / Hội Cao Niên Diên Hồng Oakland / Bán Nguyệt San Thế Hệ Mới / Tuần báo Đời Mới
tổ chức
Buổi Hội Luận Đại Họa Bắc Thuộc và Ra Mắt Tác Phẩm Thư Cho Con tập 14

Của Giáo Già & Mai Thanh Truyết

Tại Hội trường báo Đời Mới

345 E. Santa Clara; San Jose, Ca 95113

Lúc 02.00 giờ chiều

Ngày Thứ Bảy 8/5/2010
CHƯƠNG TRÌNH

01:30 Tiếp đón quan khách, thân hữu...

02:00 Chào Quốc kỳ, đồng hát Quốc ca VN

Giới thiệu quan khách tham dự

02:10 Nhà báo Đặng Thiên Sơn chào mừng

tác giả, diễn giả và quan khách

Giới thiệu Chủ tọa đoàn và Thư ký đòan

02:20 Kỹ sư Bùi Sơn giới thiệu tác giả

và tác phẩm nói về Đại họa Bắc Thuộc

02:40 Ông Giáo Già nói về

Dân Tộc Sinh Tồn thời Bắc Thuộc

03:00 Tiến sĩ Mai Thanh Truyết nói về TC

khai thác tài nguyên và hủy hoại môi sinh VN

03:20 Hội luận với phần đóng góp của quan khách và:

- Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy

- Đại Việt Quốc Dân Đảng

- Liên Đoàn Cử Tri Người Việt Bắc CA

- Đảng Tân Đại Việt

- Liên Minh Dân Chủ Việt Nam

03:50 Đúc kết và đọc tuyên cáo chung.


4:00 Lời cảm tạ của Ban Tổ chức - Bế mạc

Tác giả ký tên trên sách lưu niệm


Điện thoại liên lạc:

Trần Minh Nhựt: 510-333-9117

Mai Thanh Truyết: 714-322-8081

Trần Minh Xuân: 510-449-9539

oooooooooo 00000 oooooooooo
youtube

HÌNH ẢNH NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 2010 CÓ GẦN 4000 NGƯỜI VIỆT SỐNG TẠI HOA KỲ VÀ CÁC NƯỚC TỰ DO ĐÃ ĐI THĂM CHIẾN HẠM USS MIDWAY


http://www.youtube.com/watch?v=rlDd571EFrw
oooooooooo 00000 oooooooooo
Diễn văn Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương

năm 4889 (2010) tại Vancouver

Kính thưa quý vị,


Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây, ngày giổ Quốc Tổ của giống nòi Việt, để kính nhớ ơn các ngài đã dựng nên nền móng con người mà chúng ta, hậu duệ đã thụ nhận, truyền thừa nguyên khí, tinh anh từ Tổ tiên. Sự truyền thừa đó tích tụ, sàng lọc những kinh nghiệm trong cuộc sống giúp thăng tiến, hướng thượng giống nòi để có được cấu trúc tinh thần cũng như thể xác của con người VN hôm nay.

Về mặt vật chất, địa lý, lịch sử mặc dầu chúng ta đã có một thời hùng cứ ở Hoàng Hà, Dương Tử tranh đấu với các tộc khác từ thuở ban sơ của trời đất.Tộc Việt đã dừng chân địa hiểm cuối cùng Việt Bắc mà chứng liệu hiện đại cũng như lịch sử, truyền khẩu, ghi chép lại đã hiện hữu hàng ngàn năm nay. Đất nước đã được khai phá, mở rộng, tô bồi qua nhiều thế hệ để có một dãi sơn hà gấm vóc từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau.

Chúng ta hồi công khai phá dựng nước của tổ tiên, tiền nhân, các Anh Hùng Liệt Nữ, công ơn trời biển này và thử ngược dòng lịch sử, trở về thời Cổ đại, thuở bình minh của lịch sử Việt để cảm nhận Tổ tiên chúng ta đã sống với biết bao hiểm họa, thiên tai, thú dữ và nhất là sự cạnh tranh sinh tồn với các tộc người xung quanh để bảo vệ dòng giống, môi trường sinh sống. Khi hình thái làng mạc thành hình và sau đó địa bàn cư trú rộng lớn hơn tương ứng với sự sinh sôi nẩy nở là việc giữ nước, phát triển đất nước của những thế hệ sau đó. Các phát kiến, văn minh văn hóa Việt song hành trong cuộc sống va chạm thực tế đã hình thành. Mặc dầu lịch sử Việt là lịch sử của đấu tranh,lịch sử của chiến tranh, chúng ta cũng đã có nền văn minh sáng chói: văn minh Hòa Bình, Đông sơn với trống đồng Ngọc Lũ. Tổ tiên chúng ta đã sáng tạo Hà đồ Lạc Thư; minh triết Việt hàm chứa quân bình âm dương, thể hiện Đạo Vuông Tròn, bánh Dày bánh Chưng, Tổ vật Rồng Tiên biểu tượng Rồng uy dũng Tiên yêu kiều, tha thướt. Sống Thực tế, Nhân Bản bàng bạc trong kho tàng ca dao tục ngữ, thi ca, chuyện tích...

Phải nói rằng, dân tộc VN có ý thức độc lập tự chủ hơn mọi tộc người trên quả đất này, do thế mới sản sinh vô số những thần uy thánh tướng trong lịch sử Việt tranh đấu chống sự nô lệ, áp bức, bất công.

Nhưng đại họa cho dân tộc VN và tủi hổ cho hồn thiêng núi sông và rất mực nguy khốn cho đất nước, việc CSVN mấy đứa con lạc loài, nghịch tử đưa quái thai chủ nghĩa CS nhập vào VN để đày đọa dân tộc Việt. Chúng chấp nhận làm thân Thái thú, thần phục, chịu làm tay sai cho TC chỉ để giữ vững quyền lực, quyền lợi của chúng gây chinh chiến tai vạ, phân rẽ, thất nhân tâm đã đưa dân nước tới cảnh nô lệ, lầm than. Chúng đã dâng đất, hiến biển, dâng đảo cho giặc. Ta đã mất đi Hoàng Sa, Trường Sa, ... CSVN dâng đất của VN qua Hiệp Định Biên Giới năm 1999 VN mất Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, bị lấn chiếm đường biên giới...VN mất 114 km2 cho TC; CSVN hiến 11,000 km2 vùng Vịnh Bắc Bộ qua Hiệp định Vịnh Bắc Bộ năm 2000.

Quyền khai thác Bauxit Tây nguyên; nhượng quyền, cho thuê rừng khai thác VN mất đi thế chiến lược và mất đi nguồn tài nguyên quý giá; không kiểm soát được cả chục ngàn nhân công Tàu qua làm việc tại các công trình. Họa mất nước đang cận kề, họa Bắc thuộc một lần nữa đang xảy ra.

Kế sách của TC lần này rất quỷ quyệt mà Đức Trần Hưng Đạo trước khi mất đã hiến kế cho vuaTrần Anh Tông để trị liệu: “ nếu địch dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị; thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả” quỷ quyệt của TC ở chổ phối hợp cương nhu.

Cương là xâm lấn và dùng quân sự để bám giữ quyết liệt, không từ những hành động dã man. Nhu là ở chổ dùng bọn tay sai Thái thú VC trị vì để từ từ dâng hiến, công nhận chủ quyền của giặc trên pháp lý, công hàm; để ký kết trên giấy tờ các nhượng địa, thuê mướn, ưu lợi cho giặc khai thác tài nguyên của đất nước; là văn hóa phẩm phim ảnh của giặc tràn ngập; là lệ thuộc kinh tế từ cọng kim sợi chỉ; là khúm núm tuân lệnh giặc để đè bẹp, bỏ tù người dân chống giặc; là thẳng tay giết hại dân Việt; là áp đặt tròng vào cổ dân Việt...là tự phế.

Hiện giờ đất nước đã mất đi vùng trời, biển, đất, đảo, văn hóa bật gốc, nhân tâm rời rạc, bạo quyền ăn chơi trác táng, công an du đảng trị lo bóc lột, hà hiếp dân thì còn đâu tướng tài, còn đâu lòng dân ủng hộ! VC bán nước đâu cần giữ nước!!

Tối hậu của kẻ cầm quyền là lo cho dân giàu nước mạnh, lo cho dân an cư lạc nghiệp, làm lợi cho đất nước, tìm đường tiến cho giống nòi có sức đủ để làm rạng rỡ, tạo dựng nên nền văn minh đóng góp cùng đồng loại hay ít ra cũng theo kịp người. Khốn cho đất nước, VC chỉ lo cho đảng viên, đất nước dân chúng chỉ là phương tiện, là cỏ rác.

Trước tình hình nguy khốn như vậy, chúng ta ở hải ngoại, 100 con theo Mẹ Âu Cơ ra biển, chúng ta đang hưởng được sự tự do thực sự, đang sống trong các nước văn minh Dân chủ thực sự chúng ta phải có nhiệm vụ giúp Đồng Bào trong nước đòi cho được những gì chúng ta đang có, tự do chính trị, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội, các quyền làm người căn bản, mà ¾ nhân loại đang được hưởng, đã bị bọn man rợ CSVN cướp đi.

Việc chúng ta có thể làm là lên tiếng với quốc tế, vận động các nhà Lập pháp, Hành pháp làm áp lực với bọn CSVN trong các trao đổi, viện trợ. Can thiệp khi có những vi phạm xảy ra ... Việc chúng ta có thể làm là gia nhập, đóng góp công sức vật lực cho các Cộng đồng tại địa phương, cho các đoàn thể đấu tranh có lập trường quốc gia dân tộc, làm việc chính nghĩa và nhất là ủng hộ các nhà đấu tranh Dân chủ trong nước về mọi mặt.

Nhược bằng chúng ta không muốn hy sinh, việc làm cần kíp là nhổ cỏ gai độc tài, dẹp bỏ du đảng CSVN thì không bao lâu nữa, VN sẽ chìm ngập trong cảnh nước tan nhà mất, dân Việt điêu linh, một cổ 2 tròng của bọn xâm lược TC và bọn Thái thú VC. Chắc chắn chúng ta không muốn lịch sử của VN sau này có ghi thế này: “Năm 2011 VN đã bị giặc trong tiếp giặc ngoài xâm lược bằng kinh tế, tài chánh và quân sự, chính trị, đặt VN vào ách thống trị Bắc thuộc lần thứ tư trước sự căm phẫn của 89 triệu người trong nước và sự thờ ơ, lãnh đạm của hơn 3 triệu người Việt hải ngoại.”

Cám ơn quý vị đã lắng nghe và quý hóa thay, có những cơn đau nhói dấy lên trong lòng quý vị để khởi động sự quyết chí đấu tranh, chặn đứng sự sụp đổ tan tành căn nhà Việt Nam.
Kính chào quý vị

Nguyễn Hữu Ninh

Chủ Tịch

Cộng Đồng Người Việt Vùng Vancouver

oooooooooo 00000 oooooooooo

Tưởng niệm cố TT Nguyễn Văn Thiệu

Lê Quế Lâm
Những Bài Học Lớn của Dân Tộc

Nhân mùa Quốc hận lần thứ 35 (30/4/2010), tôi được một thân hữu ở Paris -Giáo sư Nguyễn Văn Trần, gởi tặng quyển Quan hệ Mỹ-Trung thời chiến tranh lạnh chống CS Nga. Tác giả là ông Nguyễn Vạn Hùng ở Los Angeles, sách được Thời Luận xuất bản ở HK năm 2008. Người viết Lời Giới Thiệu là Luật sư Trần Thanh Hiệp ở Paris.

Trong Lời Tựa, ông Hùng viết “Hơn 30 năm sau ngày mất MN, tháng Tư về, nếp suy nghĩ cũ vẫn còn hằng sâu trong lòng mọi người: Chúng ta thua là do Mỹ và đồng minh tháo chạy. Nhận định đó không sai, nếu nhìn về mặt hình thức: Rõ ràng là Mỹ đã bất lực trước sức tiến quân mạnh mẽ của Hànội, đến nổi phải cuốn cờ Mỹ trên nóc Tòa Đại sứ rồi hối hả lên trực thăng tháo chạy đến đệ thất hạm đội đang thả neo dọc vùng biển Đông của Miền Nam VN, chờ sẳn để tiếp cứu…Thế nhưng thực chất của cuộc Mỹ và Đồng Minh tháo chạy ấy lại hoàn toàn khác. Nó mang một chiến thuật lẫn chiến lược lâu dài và rộng lớn trong chính sách toàn cầu của HK, nhằm triệt tiêu chủ nghĩa CS do Nga Xô dẫn đầu và chủ động từ gần hết thế kỷ thứ 20…

Thoạt đầu Mỹ và Trung Cộng là hai kẻ đối đầu. Và khi hai nước trở thành đồng minh, thì cuộc chiến tự nó phải chấm dứt. Tiếng súng vẫn tiếp tục nhưng được dời sang một chiến trường mới, trong sách lược toàn cầu của HK, nhằm triệt hạ đế quốc CS Nga. Vị trí địa dư, lãnh thổ VN không thể thay đổi, vì thế vấn đề địa dư chính trị luôn gắn liền với sinh mệnh của đất nước và dân tộc. Trong suốt thời chiến tranh lạnh, mối quan hệ giữa Hoa Thạnh Đốn và Bắc Kinh đã để lại cho chúng ta nhiều bài học, gắn liền với xương máu của dân tộc. Học hỏi những bài học đó từ cả hai phía HK và TC, dù là rất khiêm tốn, để tự tìm một hướng đi đúng đắn nhất trong tương lai, đó chẳng phải là điều uổng phí và đó cũng là hoài bảo của người viết”.

Trong lời giới thiệu, L/s Trần Thanh Hiệp đánh giá quyển sách trên là một tác phẩm đáng được chú ý. Tác giả đã để công sưu tầm dữ liệu trong nhiều tác phẩm chuyên ngành để dựng lên một kiến trúc suy tư về bang giao Mỹ-Trung Quốc trong một giai đoạn nhất định cho người VN đọc. Một thành tích đáng kể của tác giả là những sưu tầm trong tác phẩm đã thuyết phục được người đọc chấp nhận kết luận rằng đường lối ngoại giao của Mỹ -mà bước ngoặc quan trọng là chuyến viếng thăm Bắc Kinh năm 1972 của Nixxon-Kissinger- đã biến TQ thành đồng minh chiến lược của HK để Mỹ phân hóa hàng ngũ CS thế giới, làm sụp đổ Đế quốc Đỏ LX và cả hệ thống chư hầu ở Đông Âu. Sự thật có đúng vậy hay không, điều này có thể sẽ còn được bàn cãi trong tương lai. Nhưng hiện giờ giả thuyết này đã được coi là cơ sở cắt nghĩa giai đoạn kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh.

Một thành tích khác nữa, không thể bỏ qua, là tác giả đã mượn trường hợp TQ để phơi bày ra trước ánh sáng bản chất của cái một thời được gọi là “tình đoàn kết chiến đấu giữa các nước CS anh em”. Đối với những người CS, quyền lợi quốc tế cũng vẫn đặt ở dưới quyền lợi quốc gia dân tộc. Bằng chứng là vì lợi ích riêng mà TQ vô sản đã hợp lực với Mỹ tư bản để triệt hạ LX vô sản…

Chính sách ngoại giao của Mỹ kể từ hậu bán thế kỷ vừa qua, đã trực tiếp ảnh hưởng tới số phận của mỗi người và cả dân tộc VN. Với sự trợ lực dồi dào của Mỹ, mấy chục triệu người Việt đã đỗ xương máu để chống họa độc tài. Thế nhưng trên 80 triệu người trong cả nước hiện nay vẫn còn phải ngụp lặn trong một môi trường xã hội phi nhân quyền, dưới sự cai trị của một tập đoàn cầm quyền thối nát tham nhũng, tàn bạo với tác phong đạo tặc không hơn không kém. Đó là kết quả trực tiếp của chính sách ngoại giao của Mỹ đã phối trí để trao quyền cho những người CSVN. Cũng chính sách ấy đã trao lục địa Trung Hoa cho những người CS Trung Quốc. Kịch bản bi thương này được ông Nguyễn Vạn Hùng kể lại trong tác phẩm của ông.

L/s Hiệp nói rằng ông đã đọc tác phẩm của ông NVH với tâm trạng của người thuộc những thế hệ đã được hay bị chính sách ngoại của Mỹ an bài. Ông cám ơn ông Hùng đã chiếu rọi vào phong cảnh cũ những ánh sáng mới, mở ra những viễn tượng mới cho những ai còn quan tâm đến tương lai đất nước. Nếu ngoại giao đã làm cho Dân chủ thua thì ngoại giao cũng có thể làm cho Dân chủ thắng. Tất nhiên với điều kiện là Dân chủ phải là một lực lượng có bản lãnh khuất phục độc tài. Lực lượng ấy đang được hình thành ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Và đang trên đà lớn mạnh. Nhưng ngoại giao thì vẫn vắng thiếu, nếu phải hiểu ngoại giao qua tiền lệ mà ông NVH đã bỏ công sưu tầm để giới thiệu trong cuốn Quan hệ Mỹ Trung: Thời chiến tranh lạnh chống CS Nga.

Ông Nguyễn Vạn Hùng và L/s Trần Thanh Hiệp đều vì tương lai đất nước mà soi rọi lại quá khứ, nhắc đến mối quan hệ Mỹ Trung trong việc hạ CS Nga, để học hỏi bài học gì từ phía HK và TC nhằm tìm một hướng đi tương lai cho dân tộc. Giáo sư Nguyễn Văn Trần cũng vì tương lai đất nước nên mới gởi tặng tôi quyển sách trên. Vì hai thập niên trước, tôi đã viết quyển Việt Nam Thắng và Bại: Bản Nghiên cứu Chiến tranh VN trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Đây là bản nghiên cứu cuối cùng của một người lính VNCH đã được Quân đội giao phó trách nhiệm. Khi cuộc chiến đã tàn, tôi thấy có bổn phận phải tường trình đến các chiến hữu và đồng bào. Mục đích của tôi cũng vì đất nước ngày mai.

Cuộc chiến VN vốn mang nhiều bí ẩn, hàng ngàn quyển sách đã viết về nó. Mỗi người đều có cái nhìn riêng tùy theo nhận thức từng người. Tôi hoàn toàn tôn trọng những cảm nhận của họ. Cá nhân tôi cũng có cái nhìn như ông Hùng: bước ngoặc lớn trong chiến tranh VN là việc HK bắt tay với TC để hạ LX. Nhưng tôi không bao giờ có ý nghĩ vì thế HK đã giao MN tự do cho CS. Chiến tranh lạnh chấm dứt, HK trở thành siêu cường số một thế giới. Còn TC ngày nay là một cường quốc kinh tế sắp sửa vượt qua Nhựt, chỉ đứng sau HK. Sở dĩ được vậy là vì họ biết lợi dụng cuộc chiến VN vừa để thủ lợi và để xiễn dương chánh nghĩa của họ. Còn giới lãnh đạo VN, tôi phải nói thẳng: họ không biết nương theo thế cờ quốc tế để làm lợi cho dân tộc mà còn tự nguyện làm tay sai cho ngoại bang để duy trì quyền lực. Một điểm nữa, cả HK và TQ đểu đặt lợi ích dân tộc của họ lên trên hết. Tôi tin tưởng rồi đây đất nước ta sẽ có Dân chủ như Mỹ và kinh tế phát triển mạnh như Trung Quốc chớ không cần phải nhờ một cường lực nào cả, vận mạng dân tộc là do toàn dân VN chúng ta quyết định.

Để đáp lại sự ưu ái của Gs Trần đã tặng sách, cũng như công khó sưu tầm của ông Hùng với hoài bảo tìm bài học gì từ HK và TQ để định hướng tương lai và từ những gợi ý trong lời giới thiệu của L/s Hiệp. Tôi xin được đóng góp những cảm nghĩ của mình về bài học của dân tộc, song trước tiên xin tóm lược đôi điều về chiến tranh và kết thúc chiến tranh.
Chiến tranh VN và Chiến tranh lạnh

Nói đến chiến tranh VN mà không đề cập đến chiến tranh lạnh, thì chỉ hiểu CTVN một cách phiếm diện mà thôi. CTVN khởi đầu cùng lúc với chiến tranh lạnh từ đầu năm 1947 và kết thúc năm 1989, hai năm sau chiến tranh lạnh chấm dứt. Chiến tranh lạnh là sự đối đầu giữa Thế giới Tự do do HK lãnh đạo và Quốc tế CS do LX dẫn đầu. Sở dĩ gọi chiến tranh lạnh, vì Nga Mỹ không đối đầu nhau tại chiến trường, trái lại còn “chung sống hòa bình”. Trong khi đó, chiến tranh nóng thực sự xảy ra ở VN, trải qua ba giai đoạn.

* Đầu tiên là giữa Việt Minh/CS và Pháp (1947-1954) kết thúc với HĐ Genève 1954.

* Sau đó là chiến tranh giữa CSVN và HK. Kết thúc năm 1975 sau khi hai bên ký kết Hiệp định Paris 1973.

* Cuối cùng là chiến tranh giữa CSVN (được LX ủng hộ) với CS Miên (tức Khmer Đỏ được TC ủng hộ). TC và CSVN đã có trận đánh lớn hồi tháng 2/1979, song chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Sau khi quân CSVN rút khỏi Miên, các phe phái người Cam Bốt ký HĐ Paris 1991 và tham dự cuộc Tổng tuyển cử do LHQ phụ trách.

Chiến tranh lạnh: Khi Thế chiến II chấm dứt, các đồng minh thắng trận chia nhau ảnh hưởng ở Châu Âu và Đông Á. Nhưng chỉ hơn một năm sau, từ đầu năm 1947 mầm móng chiến tranh xuất hiện. QTCS công khai kêu gọi các phần tử bất mãn, các lực lượng đối lập và các đảng CS khắp nơi trên thế giới phát động chiến tranh du kích và đình công phá hoại. LX không ngần ngại xử dụng bạo lực tại những nơi nào họ cảm thấy không thao túng được guồng máy chính trị làm lợi cho họ, điển hình là tại Ba Lan và Tiệp Khắc. Đối với những nơi thuận lợi như Hy Lạp, QTCS tích cực ủng hộ và yểm trợ các cuộc nổi loạn của du kích cộng sản chống lại chính quyền trung ương ở Athène.

Tháng 3/1946 khi cùng TT Harry Truman viếng thăm viện Đại học Fulton ở Missouri (HK) cựu thủ tướng Anh Winston Churchill kêu gọi sự hợp tác đặc biệt giữa hai nước để ngăn chận Cộng sản. Ông báo động: “Một bức màn sắt đã rơi xuống lục địa từ Steltin ở Baltic tới Trieste trên biển Adriatic. Điều nước Nga muốn chính là sự bành trướng quyền hành và học thuyết của họ một cách vô tận” (1)

Tại Hy Lạp, chính phủ Anh không đủ khả năng bảo vệ phần đất ảnh hưởng của mình nên cầu cứu HK. Ngoại trưởng George Marshall lập luận rằng Hy Lạp sụp đổ sẽ kéo nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ sụp đổ theo…và cuối cùng LX sẽ áp đặt ách thống trị lên toàn thể các nước ở Trung Đông và Châu Á. Đó khái niệm thuyết Domino, nếu HK không can thiệp kịp thời, các nước tự do sẽ lần lượt lọt vào tay CS. Ngày 12/3/1947 Truman ra trước Lưỡng viện Quốc hội trình bày tình trạng khẩn trương tại Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Truman, những hành động xâm lược nhằm áp đặt chế độ độc tài lên các dân tộc tự do là một sự thách đố, bắt buộc HK phải trả lời. Ông nói: “HK đã đóng góp 341 tỉ đôla để chiến thắng trong Thế chiến II, đó là sự đầu tư cho thế giới tự do và hòa bình” nay ông “chỉ xin Quốc hội 1/10 của 1/100 số tiền đầu tư đó để tài trợ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ bảo vệ tự do, duy trì an ninh ở Trung Cận Đông”.

Truman đoan quyết trước Quốc hội “Tôi tin rằng chính sách của HK phải là nâng đỡ các dân tộc tự do chống lại những mưu toan thống trị do các phần tử thiểu số có vũ trang hoặc các áp lực từ bên ngoài gây ra…Các dân tộc tự do trên thế giới nhìn về chúng ta để tìm một chỗ dựa để giữ gìn tự do của họ, nếu chúng ta do dự trong vai trò lãnh đạo của mình, chúng ta sẽ làm cho nền hòa bình thế giới bị lâm nguy và chắc chắn cuộc sống êm ả của chúng ta bị lâm nguy(2) Đây là lời cam kết đầu tiên của HK trong tư thế lãnh đạo Thế giới Tự do, mở màn trận chiến mới chống chế độ độc tài CS khuynh đảo. Dự luật viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ được Quốc hội Mỹ thông qua, với sự có mặt của ba vị tổng thống sau này là Kennedy, Johnson và Nixon. Quyết định can thiệp của TT Truman theo nhận xét của TNS Edwin Johnson: “Đó là sự tuyên chiến với Liên Xô(3)

Đông Dương vốn đứng ngoải ảnh hưởng của LX lẫn HK, nhưng năm 1950 khối CS ủng hộ VM/CS đánh Pháp sau khi Pháp đã ký Hiệp ước Elysée trao trả độc lập cho VN. Do đó cuộc chiến ĐD lần thứ nhứt xảy ra, các cường quốc họp nhau ở Genève, chia cắt ảnh hưởng ba nước ĐD để bảo vệ hòa bình thế giới. Lào và Miên trung lập. VN bị chia đôi: miền Bắc thuộc ảnh hưởng khối CS, miền Nam VN thuộc ảnh hưởng TGTD. Từ đầu năm 1959, MB thành lập MTGPMN, phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ để thôn tính MN.

Bất đắc dĩ, HK phải đưa quân vượt nửa vòng trái đất đến giúp Nam VN, đối đầu với một dân tộc chậm tiến hiền hòa nhưng tư tưởng bị đầu độc nặng nề bởi một ủy viên CSQT già dặn hết sức cuồng tín và đầy thủ đoạn. Nhiều người ngoại quốc nói rằng chiến tranh VN là chiến tranh ủy nhiệm. Đây là nhận định gán ép. HK không bao giờ ủy nhiệm VNCH để chống khối CS. Họ viện trợ kinh tế giúp TT Ngô Đình Diệm phát triển quốc gia, viện trợ quân sự để VNCH tự vệ. Sau đó họ gởi cố vấn quân sự đến MN, giúp VNCH đối phó với chiến tranh du kích của CS. Đến khi MN lâm nguy họ trực tiếp can thiệp. Khi tình thế sáng sủa, họ rút quân. Và cuối cùng ký hiệp định hòa bình với BV, họ kỳ vọng VNCH sẽ giành thắng lợi chính trị trong cuộc tuyển cử dân chủ tự do. Kế hoạch bất thành vì TT Nguyễn Văn Thiệu chỉ có một suy nghĩ duy nhứt: MN là tiền đồn của TGTD và HK phải bảo vệ tiền đồn này mãi mãi. Đối với HK, họ đến MN để ngăn chận làn sóng Đỏ tràn xuống ĐNÁ. Kế hoạch ngăn chận hoàn tất, các nước ĐNÁ không còn cần đến SEATO (Liên Phòng ĐNÁ), họ thành lập khối ASEAN (1967) và tuyên bố ĐNÁ là khu vực tự do hòa bình và trung lập (1971). Sau đó, HK rút khỏi MN chớ nơi đây chẳng phải là tiền đồn gì cả.

Còn LX cũng không hề ủy nhiệm CSVN làm người ủy nhiệm, bởi lẽ họ đã có “tay trong” tự nguyện làm việc đó rồi. Đó là ông HCM -một ủy viên QTCS từ 1924. Khi LX và TC ủng hộ CSVN đánh Pháp, Trường Chinh Tổng Bí thư đảng Lao động VN lớn tiếng cho rằng: “Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới kéo dài từ Đông Âu đến Bắc Á sẽ hỗ trợ đắc lực cho CS Đông Dương -tiền đồn chống đế quốc ở Đông Nam Á”. Sau đó Chính cương của Đảng LĐVN được Đại hội Đảng lần II thông qua hồi tháng 2/1951 xác nhận “Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” (4) Năm 1960, CSVN phát động chiến tranh giải phóng MN, Nghị quyết Đại hội III xác định rõ: “GPMNVN để thiết thực góp phần tăng cường hệ thống XHCN thế giới”.

Nhiều người còn cho rằng “chiến tranh VN là chiến tranh giải phóng dân tộc”, cũng không đúng. Theo HK, những lãnh tụ CS, đặc biệt ở Châu Á là những người phản bội quê hương của họ. Họ bị mê hoặc bởi một triết thuyết xa lạ của Châu Âu là chủ nghĩa Marx-Lenin và trở thành tay sai của LX. CSVN du nhập vào đất nước họ những thứ không phải là truyền thống của dân tộc VN như đấu tranh giai cấp, hận thù dân tộc, con tố cha, vợ tố chồng, chủ trương tàn sát người đồng chủng như Tố Hữu đã hô hào: “Giết, giết, giết không ngừng nghỉ”. Lansdale, người đã giúp ông Diệm xây dựng nền móng Cộng hòa đã viết: “Cái bi kịch của cách mạng VN để giành độc lập là ông HCM đã thay đổi mục tiêu của cuộc đấu tranh: thay vì một cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp để giành độc lập, đó lại là cuộc chiến đánh bại người Pháp để đưa VN vào đế quốc thực dân mới của Cộng sản”.

Tóm lại, chiến tranh VN, thực chất là sự đối đầu giữa HK (được các đồng minh TGTD là Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đại Hàn tiếp sức) để đương đầu với một ủy viên QTCS là ông HCM, chớ không phải chống nhân dân VN. Người dân VN vốn giàu lòng yêu nước nên đứng về phía HCM vì ông hô hào toàn dân vì “nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng” phải chiến đấu chống Mỹ đến cùng để giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Về phần TC sau những bất đồng về đường lối QTCS, họ tách rời LX, thành lập một lực lượng riêng, dưới lá cờ dân tộc chủ nghĩa, bảo vệ các nước Thế giới thứ ba, chống cả LX và HK vì hai nước này đều là đế quốc xâm lược để thống trị thế giới. Vì thế họ ủng hộ CSVN “đánh Mỹ đến người VN cuối cùng” như nhận xét của tướng Mawxell Taylor (5)

HK không chống nhân dân VN vì họ chiến đấu vì nghĩa vụ dân tộc VN. Năm 1954 Hội nghị Genève kết thúc đưa đến việc chia hai VN, trong bản Tuyên bố riêng, HK đã nói rõ “Nếu quyết định của các cường quốc phản lại ý muốn của người dân bản xứ, HK sẽ mưu tìm sự thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do có LHQ giám sát(6) HK cũng không thể chống TQ khi họ ủng hộ CSVN thực hiện nghĩa vụ dân tộc. Vì thế HK phải thừa nhận vai trò lớn của BK. Từ 1971 HK không dùng quyền phủ quyết để ngăn chận TC gia nhập LHQ. Nhờ đó TC trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An ngang hàng với LX và HK. Ngoài ra HK còn thừa nhận TC như là lãnh tụ các nước Thế giới thứ ba, để góp phần với Mỹ kết thúc chiến tranh VN. Tại Sàigòn, Lực lượng thứ ba ra đời với thiện ý hòa giải hai phe Quốc Cộng, cả ba sẽ thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc để tổ chức cuộc tuyển dân chủ tự do có quốc tế giám sát theo tinh thần HĐ Paris 1973. HK đã thực hiện lời hứa mà họ đưa ra hồi năm 1954.

Để thực hiện mục tiêu trên, HK đưa hơn nửa triệu quân vào MN nhưng không thủ thắng. Một tháng sau ngày nhậm chức, ngày 24/2/1981 TT Reagan trao gắn huy chương cao quý nhất nước Mỹ là Huân chương Danh Dự của Quốc hội cho một cựu chiến binh từng chiến đấu ở VN là Thượng sĩ Roy P. Benaridez. Ông tuyên bố “Các anh chiến đấu trở vể không mang theo chiến thắng, không phải vì các anh bị đánh bại, mà vì người ta không muốn các anh chiến thắng”.Trong hiệp định hòa bình, HK không dành thắng lợi cho mình, cũng không gây tác hại nào cho CS, trái lại còn mở ra giai đoạn hợp tác mới rất có lợi cho họ. Đối với nhân dân Mỹ, TT Nixon đã đáp ứng nguyện vọng chấm dứt chiến tranh và hồi hương tù binh. Đối với VNCH, TT Nixon mong muốn được cộng tác với TT Thiệu và chính phủ VNCH trong nhiệm kỳ thứ hai “để bảo vệ tự do cho MN trong thời bình”. Và HĐ Paris sẽ “bảo vệ nền độc lập của Nam VN và cho phép nhân dân VN quyết định lấy tương lai chính trị của mình”.

Từ 35 năm qua, đồng bào mong mõi được nghe tiếng nói chính thức của các vị lãnh đạo cao nhất VNCH về biến cố 30/4. TT Thiệu đã an giấc nghìn thu, các cộng sự thân cận như Thủ tướng Khiêm, Cố vấn An ninh Quốc gia Đặng Văn Quang, Bí thư Hoàng Đức Nhã…cũng không thấy ai lên tiếng. Chỉ có Tiến sĩ Kinh tế Nguyễn Tiến Hưng viết hai quyển Bí mật Dinh Độc Lập (1987) và Khi Đồng Minh Tháo Chạy (2005) đổ tội cho HK phản bội đồng minh. Năm nay Ts Hưng sẽ cho ra mắt sách viết về Tâm tư TT Thiệu. Cầu mong ông cung cấp cho đồng bào những dữ liệu mới có tính thuyết phục về sự phản bội của HK. Vì những lập luận của ông trong hai sách đã phát hành có vẽ quá ấu trỉ. Tôi xin nêu ba thí dụ:

* Ông trích dẫn câu hỏi của Erlichmann Đổng lý Văn phòng của TT Nixon hỏi Kissinger ngày 24/1/1973: “Theo ông, MNVN có thể được tồn tại bao lâu nữa”. Kissinger trả lời: “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn thì được một năm rưỡi”. Một học trò tiểu học cũng có thể trả lời như vậy huống chi là Kissinger. Vì sao? HK ký HĐ Paris là để chấm dứt chiến tranh, trong khi VNCH hoàn toàn tùy thuộc vào Mỹ lại muốn tiếp tục chiến đấu, thì lấy vũ khí ở đâu mà chiến đấu lâu dài? Viện trợ quân sự năm 1973 là 2,2 tỷ đôla, năm sau giảm chỉ còn một nửa. Số quân viện này để tự vệ trong thời bình, chớ không phải để tiếp tục chiến tranh. Vì thế “nếu may mắn thì được một năm rưỡi” vì đâu còn đủ vũ khí để chiến đấu.

* Ông nói rằng “Mỹ có thể chấp nhận một chính quyền cộng sản ở Sàigòn”. Khi trích dẫn lời nói của ai, phải nói có đầu có đuôi. Thật ra trong cuộc đàm luận giữa Chu Ân Lai và Kissinger tại Bắc Kinh ngày 22/6/1972, hai bên đã thảo luận rất nhiều vấn đề. Khi đề cập đến cuộc tuyển cử về quyền tự quyết của nhân dân MNVN, Kissinger nói rằng: “Mặc dù chúng tôi không thể mang một chính quyền CS đến NVN, nhưng nếu nó là kết quả của một diễn biến chính trị thì chúng tôi phải chấp nhận kết quả đó”. Nguyên văn là như vậy. Khi tài liệu này được giải mật mấy năm trước. Kissinger tái xác nhận “Nếu họ thỏa thuận được một kết quả, một dàn xếp dân chủ, chúng tôi sẽ để nó phát triển theo tiến trình riêng của nó. Chấp nhận CS nắm quyền không có nghĩa là mong cho việc đó xảy ra”. Ý của Kissinger là nếu CS chấp nhận giải pháp chính trị, tham dự cuộc tuyển cử dân chủ, nếu họ thắng thì phải chấp nhận kết quả đó.

* Ông viết rằng “HK ký HĐ là để triệt thoái trong danh dự”. Trong điều 9 của HĐ ghi rõ: “Chính phủ VNDCCH và HK cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân MN là thiêng liêng bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng. Nhân dân MNVN tự quyết định tương lai chính trị của MNVN thông qua tuyển cử thực sự tự do dân chủ, có giám sát quốc tế. Các nước ngoài sẽ không áp đặt bất cứ xu hướng chính trị nào hoặc cá nhân nào đối với nhân dân MNVN”. Và điều 22 áp chót của hiệp định ghi rằng “Việc thực hiện triệt để Hiệp định này sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới bình đẳng và cùng có lợi giữa VNDCCH và HK trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Đồng thời, những việc đó sẽ bảo đảm hòa bình vững chắc ở VN và góp phần giữ gìn hòa bình lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á”. Như vậy HK ký HĐ là vì nhân dân MN, vì hòa bình ổn định ở VN, ĐD và ĐNÁ, vì muốn thiết lập bang giao với BV, chớ không phải chỉ để triệt thoái trong danh dự.

Trong khi chờ những dữ liệu mới của T/s Hưng viết về Tâm tư TT Thiệu, tôi xin tạm mượn lời nhận xét sau của ông Nguyễn Xuân Phong, cựu Trưởng phái đoàn VNCH tại hội nghị bốn bên ở Paris từ 1968 đến tháng 4/1975, đồng thời là Quốc Vụ Khanh đặc trách Hòa đàm: “TT Nixon đưa ra lời hứa một cách rất thành thật và đầy thiện chí. Ông cam kết duy trì một Nam VN chống Cộng và tin tưởng rằng sẽ thực hiện được điều đó với HĐ Ba Lê, chừng nào ông còn là tổng thống Hiệp Chúng Quốc HK và có đủ quyền uy của ‘Siêu cường hàng đầu’ trong một thế giới sẳn sàng ủng hộ ông. Ông Nixon có nhiều giải pháp để chọn lựa. Còn ông Thiệu thì chẳng còn cách nào khác hơn là tự xử bằng cách “hara kiri” (tự tử danh dự theo lối Nhựt Bổn) nếu như ông và những người cùng phe chống Cộng như ông muốn sống cho xứng danh với lý tưởng và lương tâm”. (7)



tải về 439.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương