Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh (Ưu Bà Tắc Giới Kinh)



tải về 0.93 Mb.
trang1/24
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.93 Mb.
#12474
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24
Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh

(Ưu Bà Tắc Giới Kinh)

Hán Dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm

Việt Dịch : HT Tịnh Nghiêm

Nguồn

http://www.tangthuphathoc.com

Chuyển sang ebook 11-7-2009

Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com

Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục

Giới Thiệu Kinh Ưu Bà Tắc Giới

I. Sự quan hệ giữa Phật giáo và nhân sinh:

II. Địa vị của quyển kinh này trong Phật pháp:

III. Mục đích giảng giải bộ kinh này:

Phẩm Một - Tập Hội

Phẩm Hai - Phát Tâm Bồ Đề

Phẩm Ba - Tâm Đại Bi

Phẩm Bốn - Giải Thoát

Phẩm Năm - Ba Loại Bồ Đề

Phẩm Sáu - Tu Tập Nghiệp Ba Mươi Hai Tướng

Phẩm Bảy - Phát Nguyện

Phẩm Tám - Bồ Tát Giả Danh Bồ Tát Thực Nghĩa

Phẩm Chín - Tâm Kiên Cố Của Bồ Tát Thực Nghĩa

Phẩm Mười - Lợi Mình Lợi Người

Phẩm Mười Một - Trang Nghiêm Mình và Người

Phẩm Mười Hai - Trang Nghiêm Phước Đức Trí Tuệ

Phẩm Mười Ba - Thâu Phục Đệ Tử

Phẩm Mười Bốn - Thọ Giới

Phẩm Mười Lăm - Tịnh Giới

Phẩm Mười Sáu - Trừ Ác

Phẩm Mười Bảy - Cúng Dường Tam Bảo

Phẩm Mười Tám - Sáu Ba La Mật

Phẩm Mười Chín - Bố Thí Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi - Thanh Tịnh Tam Quy Y

Phẩm Hai Mươi Mốt - Bát Quan Trai Giới

Phẩm Hai Mươi Hai - Ngũ Giới

Phẩm Hai Mươi Ba - Thi La Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Bốn - Nghiệp

Phẩm Hai Mươi Lăm - Nhẫn Nhục Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Sáu - Tinh Tiến Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Bảy - Thiền Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Tám - Bát Nhã Ba La Mật 




Giới Thiệu Kinh Ưu Bà Tắc Giới


Trong lịch sử truyền giáo của Ấn Độ và Trung Hoa, vai trò của người cư sĩ luôn luôn ở địa vị thứ yếu. Tương truyển, sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa ở Ấn Độ, là do sự bất mãn của cư sĩ tại gia đối với nếp sinh hoạt bảo thủ của Tăng đoàn Thanh văn thời bấy giờ. Như chúng ta thấy, trong nhiều kinh điển Đại thừa vào thời sơ kỳ, các nhân vật chính đều là cư sĩ tại gia, như kinh Duy Ma Cật, kinh Thắng Man, v.v... Điều này chứng tỏ có sự quật khởi của hàng cư sĩ tại gia trong lịch sử truyền bá của Đạo Phật.

Khi Đạo Phật truyền sang Trung Hoa, Phật giáo lại y cựu là Phật giáo của hàng ngũ xuất gia, còn vai trò của cư sĩ lại trở lui vào địa vị rất là thứ yếu. Hơn nữa, trong lịch sử hoằng truyền giới luật ở nước Tàu, giới luật của hàng cư sĩ rất ít có người quan tâm đến. Phật giáo nước Tàu tuy tự hào là Đại thừa, nhưng tinh thần Đại thừa không được phát huy đúng mức. Ngài Thái Hư Đại sư, một bậc cao tăng hiện đại của Trung Hoa, vào khoảng thập niên 1930, có đến thăm viếng các quốc gia Phật giáo Nam truyền, sau khi trở lại Đại lục, ngài đã than rằng: "Nước Tàu tuy mang danh là Đại thừa, nhưng tinh thần lại thực sự là Tiểu thừa; còn các nước Nam truyền, tuy mang danh là Tiểu thừa, nhưng tinh thần lại thực sự là Đại thừa." Tại sao nói như vậy? Bởi ngài thấy các nhà sư Trung Hoa, có một tinh thần gần như tiêu cực, không chịu tham gia vào các hoạt động phước lợi cho xã hội nhân quần, mà chỉ hầu như tránh né quần chúng, lo tu cho chóng, hầu mau mau ra khỏi sinh tử luân hồi, vãng sanh Tịnh độ. Không chỉ những người tu Tịnh độ có thái độ như thế, mà ngay cả các người tu Thiền hay các tông phái khác cũng đều như thế. Điều này là một sự lệch lạc trầm trọng của tinh thần Bồ tát đạo.

Trước đời Đường Vũ Tông, các trào lưu tư tưởng Đại thừa rất phổ cập trong nhân gian. Các đại tự viện do các cao tăng trụ trì thường tọa lạc trong các thành phố lớn, thành thử, Phật giáo vẫn còn giữ được mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Khi Đường Vũ Tông phá diệt Phật giáo vào năm 845, hầu hết những tự viện tại các đô thị đều bị phá hủy, kinh điển bị thiêu đốt, tăng ni bị bắt hoàn tục. Nói chung, các tông phái đều bị thiệt hại nặng nề, trừ Thiền tông. Lý do là vì các tu viện Thiền tông phần lớn đều ở chốn thâm sơn cùng cốc, thành thử tránh được sự dòm ngó của triều đình. Do đó, từ đời Ngũ Đại về sau, nhất là trong đời Triệu Tống, sau khi có một vị hoàng đế ra sắc lệnh khuyến cáo các vị xuất gia nên ẩn trú tại sơn lâm tu hành, thì phần lớn các chùa chiền đều được xây cất nơi thâm sơn hẻo lánh. Trong các đô thị, chỉ còn lại những ngôi chùa của các thầy chuyên đi cúng đám (Tàu gọi là ứng phó tăng). Tinh thần xa lánh trần thế của người xuất gia trở thành một phong khí rất thịnh hành thời bấy giờ. Thịnh hành đến nỗi, những kẻ xuất gia trú ngụ nơi đô  thị đều bị châm biếm mỉa mai. Ngạn ngữ Tàu có câu:

Ninh tọa thâm sơn cơ ngạ tử,


Bất tác nhân gian ứng phó tăng.

Nghĩa là chẳng thà ngồi chịu chết trong núi sâu, chứ không chịu làm ông thầy cúng nơi chốn nhân gian. Hàm ý của hai câu trên rất phong phú, và có thể giải thích nhiều cách, thế nhưng, tựu trung, ý nghĩa chính vẫn là muốn nói rằng những người tu hành chân chánh phải là những kẻ xa lánh trần tục, và hơn nữa, nếu như chúng ta nhận xét kỹ, sẽ thấy rằng quan niệm tu hành thời bấy giờ đã lưu lộ những tư tưởng yếm thế tiêu cực của Tiểu thừa. Từ đó trở đi, sự quan hệ giữa người xuất gia và quần chúng càng ngày càng trở nên phai nhạt. Mọi người bắt đầu có cái nhìn lệch lạc về Phật giáo, cho rằng những người xuất gia là những kẻ bất hiếu, chán đời, vô trách nhiệm đối với xã hội; thậm chí, còn miệt thị những kẻ xuất gia là sâu mọt, là ký sinh trùng của xã hội. Những quan niệm lệch lạc về Phật giáo như vậy, vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Còn về phần những người xuất gia, vì quá tha thiết với tâm trạng mong cầu giải quyết vấn đề sinh tử đại sự, cho nên cũng ít có người quan tâm đến vấn hoằng dương Phật pháp, hoặc phát triển tinh thần chân thực của Đại thừa. Sự diễn giảng kinh điển trở thành khô cứng, hoặc chỉ chú trọng đến phần đàm huyền thuyết diệu, hoặc chỉ thuần là sự những giải thích danh tướng. Những bộ kinh được ưa chuộng nhất trong thời bấy giờ là Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, v.v... Thế nhưng, các nhân vật tiêu biểu như Đồng tử Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, Long Nữ trong kinh Pháp Hoa, Trưởng giả Duy Ma Cật trong kinh Duy Ma Cật, đều bị nâng cao đến chín tầng mây, đều trở thành các vị Bồ tát bất khả tư nghì, không còn quan hệ gì đến hiện thực nhân gian nữa. Những ước mơ, nguyện vọng, khắc khoải được gửi gắm trong những lời nghi vấn thiết tha nồng nhiệt của Đồng tử Thiện Tài: "Thế nào để tu Bồ tát hạnh, hành Bồ tát đạo", đã biến thành những cụm mây trắng bệch trôi lững lờ vào những nẽo hoang vu. Ý nghĩa của hai chữ Đại thừa thực sự đã biến thành rỗng tuếch.

          Còn nếu bàn về phương diện giới luật của Bồ tát tại gia cũng như xuất gia, thì thịnh hành nhất là bộ kinh Bồ tát giới Phạm Võng. Thế nhưng, sự diễn giảng của bộ kinh này cũng bị kẹt vào những lỗi lầm vừa mới nêu trên. Nếu chúng ta có cơ hội đọc sách chú giải của những bậc cổ đức, sẽ thấy phần lớn đều chỉ là những sự huyền đàm về cảnh giới Lô Xá Na, còn phần giải thích các điều giới thì lại hoàn toàn là sự phân tích danh tướng một cách máy móc, y như trong các bộ luật của Tiểu thừa. Thực sự mà nói, các điều giới trong các bộ Luật chỉ là những công cụ cho người thọ giới dùng làm phương tiện trong cuộc hành trình thực thi Bồ tát đạo, mà tự chúng không phải là mục tiêu cứu cánh. Đến như giới luật của Bồ tát tại gia như bộ kinh Ưu Bà Tắc Giới, thì lại càng ít có người để ý đến. Bộ kinh này, tuy đã được ngài Đàm Vô Sấm dịch từ đời Lưu Tống (khoảng năm 420 AD), thế mà mãi đến cuối đời nhà Thanh (khoảng năm 1900 AD) vẫn không có một bộ chú giải nào cho bộ kinh này được ghi vào Đại tạng Trung Hoa. Điều này chứng tỏ bộ kinh này không được coi trọng trong lịch sử Phật giáo nước Tàu.

          Theo truyền thống Phật giáo Trung Hoa, mọi người đều cho rằng bộ Bồ tát giới Phạm Võng có thể áp dụng chung cho hai hàng tại gia và xuất gia, kỳ thực, nếu xét cho kỹ vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Trước khi đi vào chi tiết của vấn đề này, chúng ta sẽ nói sơ lược về sự hoằng truyền của các bộ giới luật Bồ tát trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Nếu kiểm kê trong Đại tạng Phật giáo,  chúng ta sẽ thấy, giới luật Bồ tát có năm bộ chính:

          (1) Phạm Võng Bồ Tát Giới, giảng về mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Dao Tần (khoảng  năm 410AD). Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

          (2) Bồ Tát Thiện Giới Kinh, giảng về tám giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, do ngài Cầu Na Bạt Ma dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này chỉ áp dụng cho hàng Bồ tát xuất gia.

          (3) Du Già Bồ Tát Giới, giảng về bốn giới trọng, bốn mươi ba giới khinh, do ngài Huyền Tráng dịch vào đời Đường. Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

(4) Địa Trì Bồ Tát Giới, giảng về bốn giới trọng, bốn mươi mốt giới khinh, do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

Hai bộ (3) và (4) là hai bản dịch khác nhau của cùng một bản tiếng Phạn. Về phương diện văn chương, thì bản của ngài Huyền Tráng có phần đặc sắc, thế nhưng, về phương diện bình dị, dễ hiểu, thì bộ của ngài Đàm Vô Sấm có phần trội hơn.

          (5) Ưu Bà Tắc Giới Kinh, giảng về sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh, cũng do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này chỉ áp dụng cho hàng Bồ tát tại gia.

          Theo truyền thuyết, bộ Phạm Võng là bộ kinh cuối cùng mà ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, và cũng theo truyền thuyết, thì sau khi phiên dịch bộ kinh này, ngài đã truyền thọ giới Bồ tát cho hơn ba trăm người tại Tiêu Dao Viên.  Nếu đúng như truyền thuyết đã nói, thì ngài La Thập là người đầu tiên hoằng truyền Đại thừa Bồ tát giới ở Trung Hoa, thế nhưng lại có người cho rằng ngài Đàm Vô Sấm mới đích thực là người đầu tiên Đại thừa giới luật ở Trung quốc. Công bình mà nói, nếu ngài Đàm Vô Sấm không phải là người đầu tiên, thì ít ra ngài cũng là một đại công thần trong lịch sử hoằng truyền Đại thừa giới luật ở nước Tàu. Như chúng ta thấy, các bộ kinh Đại thừa mà ngài phiên dịch, nhất là bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, đã có công lao trong việc thiết lập nền móng cho tư tưởng Đại thừa ở nước Tàu. Sau này, ngài Trí Khải Đại sư, tổ thứ ba của tông Thiên Thai, đã đưa bộ kinh này lên ngang hàng với bộ kinh Pháp Hoa là bộ kinh chủ yếu của tông Thiên Thai.

          Trở lại vấn đề mà chúng ta muốn tìm hiểu là địa vị của kinh Ưu Bà Tắc giới. Như trên đã nói sơ qua, suốt hơn một ngàn năm, bộ kinh này không có một địa vị nào đáng kể trong các bộ kinh được chú giải ở Trung Quốc, mãi cho đến đầu thế kỷ hai mươi, vào đời Dân Quốc, mới có ngài Thái Hư Đại sư, một bậc cao tăng hiện đại, một người có nguyện vọng chấn hưng Phật giáo Đại thừa, thực sự hoằng dương. Phật giáo Trung Quốc thời bấy giờ có thể nói là đã hoàn toàn thoát ly với xã hội hiện thực. Tuy cũng có các bậc cao tăng như ngài Ấn Quang Đại sư, ngài Hoằng Nhất Đại sư, v.v... đang cực lực hoằng dương Phật pháp, thế nhưng những nỗ lực của các ngài cũng chỉ là những sự vá víu tạm thời, chứ không thể nào là sự chỉnh đốn toàn bộ cục diện của Phật giáo. Đến ngài Thái Hư Đại sư, vì muốn cứu vãn Phật giáo, bằng cách đưa Phật giáo trở lại nhân gian, không thể để cho quần chúng tiếp tục hiểu lầm là đạo Phật cũng giống như các ngoại đạo thờ thần thờ quỷ khác, ngài bèn chủ trương Nhân sinh Phật giáo, nghĩa là Phật giáo lấy nhân sinh làm căn bản, chứ không mơ mộng viễn vông trong những huyễn tưởng cao vời, xa lìa đời sống hiện thực của quần chúng.

          Trong bài giảng về bộ kinh này, Thái Hư Đại sư tóm lược quan điểm của ngài, mà chúng ta có thể phân làm ba đoạn chính, như sau:




tải về 0.93 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương