THÀnh ủy uông bí ĐẢng cộng sản việt nam



tải về 0.53 Mb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích0.53 Mb.
#22896
  1   2   3   4   5   6


ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH

THÀNH ỦY UÔNG BÍ

*


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM




Uông Bí, ngày 18 tháng 6 năm 2015



BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XIX

(Nhiệm kỳ 2015-2020)

Đại hội XIX của Đảng bộ Thành phố diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa quan trọng: Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc Thành phố thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội Đảng bộ Thành phố Uông Bí lần thứ XVIII, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra. Với phương châm: “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Sáng tạo - Phát triển”; Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII (nhiệm kỳ 2010 - 2015), quyết định phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2015 - 2020), kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII; tham gia ý kiến vào các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, Đại hội XIV của Đảng bộ tỉnh, phương án nhân sự Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIV; bầu Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XIX, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường. Đối với tỉnh và thành phố đứng trước những vấn đề mới có cả thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn thách thức. Cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố đang đặt niềm tin và kỳ vọng vào những quyết sách mà Đại hội XIX thông qua để phát huy thuận lợi, vững bước vượt qua khó khăn, đưa thành phố phát triển nhanh, bền vững.
Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ LẦN THỨ XVIII
Đại hội Đảng bộ thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) lần thứ XVIII đã xác định mục tiêu tổng quát giai đoạn 2010 - 2015 là: “Tiếp tục đổi mới toàn diện, huy động mọi nguồn lực, tập trung cao độ các giải pháp nhằm phát triển kinh tế đạt tốc độ cao, ổn định; gắn với đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực văn hoá-xã hội; tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng, giữ vững sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội; tích cực tự chỉnh đốn, tự đổi mới, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng; hiệu lực quản lý, hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền, nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; tăng nhanh tốc độ nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu thành lập thành phố Uông Bí vào năm 2011; phát triển theo cơ cấu kinh tế: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; du lịch - dịch vụ - thương mại; nông - lâm nghiệp". Hội nghị giữa nhiệm kỳ 2010 - 2015, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố bổ sung mục tiêu nhiệm vụ: Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế chuyển từ tăng trưởng "nâu" sang tăng trưởng "xanh" theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Tập trung cụ thể hóa một cách thiết thực, khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả 3 khâu đột phá: “cải cách hành chính; đào tạo nguồn nhân lực; nâng cấp đô thị”.

Tiếp tục kế thừa những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, 5 năm qua Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã quyết tâm đồng lòng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đại hội Đảng các cấp, đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược thành lập Thành phố vào năm 2011, nâng cấp thành phố lên đô thị II vào cuối năm 2013, tạo tiền đề vững chắc để trở thành Thành phố động lực phát triển trong chuỗi đô thị, công nghiệp xanh phía Tây của tỉnh.



I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

1. Kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn so với bình quân chung toàn tỉnh

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 12% năm. GRDP bình quân đầu người năm 2014 đạt 4.500 USD/người/năm, (tăng 2.000 USD so với đầu nhiệm kỳ). Các ngành kinh tế trọng điểm như: Công nghiệp (khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, xi măng, cơ khí chế tạo...), dịch vụ thương mại, du lịch có bước phát triển về quy mô, chất lượng, hiệu quả. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm dần từ 12,9% năm 2010 xuống còn 8,7% năm 2014 1. Tỷ trọng khu vực II, khu vực III đều tăng, trong đó: công nghiệp, xây dựng tăng dần từ 52,7% năm 2010 lên 53,3% năm 2014; dịch vụ, du lịch, thương mại tăng từ 34,4% năm 2010 lên 38% năm 2014.



Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tuy gặp khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, song hoạt động sản xuất CN - TTCN trên địa bàn vẫn cơ bản giữ được ổn định, duy trì sản xuất và có bước tăng trưởng. Các doanh nghiệp khu vực Nhà nước trong lĩnh vực than, điện, xi măng có nhiều cố gắng trong việc tái cơ cấu, xiết chặt quản lý, giảm tối đa chi phí...Do đó đã duy trì sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoàn thành kế hoạch giao hàng năm, đóng góp tích cực vào sự phát triển ổn định kinh tế thành phố 2. Đồng thời tích cực cùng Thành phố giải quyết các vấn đề xã hội, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tham gia tích cực vào quá trình chỉnh trang, nâng cấp đô thị. Với phương châm “Đồng hành cùng doanh nghiệp” Thành phố đã chủ động gặp gỡ doanh nghiệp, chỉ đạo các cơ quan chức năng giải quyết và tham mưu cho tỉnh kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để các doanh nghiệp ổn định và phát triển.

Các ngành dịch vụ, thương mại, du lịch có bước phát triển mạnh, đa dạng, đạt mức tăng trưởng khá. Trong nhiệm kỳ, giá trị kinh doanh dịch vụ, thương mại, du lịch tăng trưởng bình quân là 22,5% /năm3. Hoạt động dịch vụ, thương mại phát triển tương đối đồng đều ở các khu vực. Công tác xã hội hoá đầu tư, nâng cấp và quản lý hệ thống các chợ, nhà hàng có bước phát triển mới, mức lưu chuyển hàng hoá trong nhiệm kỳ bình quân tăng 15%/năm. Công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại được coi trọng góp phần giữ vững ổn định thị trường, lành mạnh hoá các hoạt động dịch vụ, thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thành phố đã chủ động phát huy những tiềm năng thế mạnh về du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh 4, trong nhiệm kỳ qua: đã ban hành Nghị quyết “Xây dựng Di tích lịch sử văn hóa danh thắng Yên Tử trở thành trung tâm phật giáo Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam”; xây dựng và thực hiện nhiều giải pháp có hiệu quả để phát triển du lịch và sản phẩm, dịch vụ phục vụ du lịch; huy động xã hội hoá các nguồn lực triển khai đầu tư nhiều hạng mục công trình cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch với tổng vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng 5; tổ chức thành công các lễ hội trên địa bàn, tạo ấn tượng ngày càng tốt đẹp và thu hút được du khách trong và ngoài nước đến với Uông Bí: Lượng khách du lịch tăng nhanh, trong 5 năm đạt trên 11,7 triệu lượt người, bình quân hàng năm đạt 2,3 triệu lượt người; trong đó du khách nước ngoài tăng hàng năm từ 3 vạn lượt người/năm 2010 lên trên 6 vạn lượt người/năm 2014. Doanh thu từ du lịch đạt bình quân 600 tỷ đồng/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/năm.



Giao thông vận tải có bước phát triển vượt bậc: Trong nhiệm kỳ qua, nhiều tuyến đường giao thông quan trọng có ý nghĩa chiến lược được đầu tư, có tuyến đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: nâng cấp mở rộng quốc lộ 18, tuyến đường liên huyện Uông Bí - Quảng Yên. Các tuyến đường trong khu vực nội thành, khu dân cư của thành phố đã được mở rộng, xây dựng mới, bê tông hoá và thảm nhựa atsphan. Tuyến đường Yên tử - Ngoạ Vân (Đông Triều) đang gấp rút hoàn thành, tuyến đường Uông Bí - Hoành Bồ đang trong quá trình triển khai. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các loại hình vận tải hàng hoá và hành khách. Doanh thu dịch vụ vận tải địa phương: năm 2010 đạt 170 tỉ đồng, đến năm 2014 đạt: 476 tỉ đồng. Tốc độ tăng bình quân đạt 19,8%/năm.

Bưu chính viễn thông, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển: Hệ thống Bưu điện, Trung tâm viễn thông và hệ thống mạng trên địa bàn luôn đảm bảo thông tin liên lạc; chuyển phát th­­ư tín, b­­ưu ấn phẩm nhanh chóng, an toàn. Triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin đến năm 2020, định hướng 2025. Khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp viễn thông phát triển. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, như: Trung tâm phục vụ hành chính công; 12 điểm cầu trực tuyến từ thành phố đến các xã, phường. Nâng cấp, xây dựng các thiết chế truyền thanh, truyền hình và bưu chính chuyển phát từ thành phố đến cơ sở 6; hệ thống Bưu điện từ cấp xã đến thành phố, Trung tâm viễn thông thành phố được đầu tư nâng cấp, đảm bảo thông tin liên lạc. Số thuê bao điện thoại cố định, thuê bao điện thoại di động trả trước, trả sau, thuê bao internet tăng. Công tác phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, quản lý, điều hành được coi trọng. Các doanh nghiệp đã đầu tư đưa các dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm; đặc biệt là giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm phát triển nhanh về số lượng mạng lưới, đa dạng hoá về loại hình và tiện ích, các sản phẩm dịch vụ ngày càng được mở rộng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các thành phần kinh tế và nhân dân, tăng cường nguồn lực tài chính xã hội. Năm 2010, trên địa bàn thành phố có 07 chi nhánh Ngân hàng thương mại đến năm 2014, đã có 24 chi nhánh và điểm giao dịch của các Ngân hàng thương mại, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư, phát triển kinh tế. Ngành ngân hàng và các tổ chức tài chính trên địa bàn thành phố đã thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Chính phủ, triển khai đồng bộ các giải pháp, cơ cấu lại hệ thống và xử lý nợ xấu nhằm nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động. Trong 5 năm qua, tổng nguồn vốn hoạt động hàng năm luôn giao động trong khoảng từ 4.500 đến 5.500 tỷ đồng, góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Về lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: sản xuất nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, nhưng vẫn giữ được ổn định và có bước phát triển mới. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 6,6%/năm, đời sống các hộ nông dân ổn định, từng bước được cải thiện; năng suất lúa, cây trồng được nâng lên; tổng đàn gia súc gia cầm được duy trì và phát triển. Các công trình thuỷ lợi trọng yếu được đầu tư nâng cấp, sửa chữa; công tác khuyến ngư được quan tâm hơn, đã chuyển dần từ nuôi quảng canh sang bán thâm canh, nhiều giống mới được đưa vào nuôi trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thành phố đã có 05 sản phẩm nông nghiệp được chứng nhận thương hiệu do Cục Sở hữu trí tuệ cấp 7; 13 sản phẩm đăng ký đưa vào chương trình OCOP của tỉnh.

Sản xuất lâm nghiệp ổn định, triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, phát triển rừng; không để xảy ra cháy rừng và các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng; tích cực phủ xanh đất trống, đồi trọc, hoàn nguyên môi trường, đến năm 2014 tỷ lệ che phủ rừng đạt 50,8% diện tích (Nghị quyết đề ra là 49,8%.).



Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự chung tay của cộng đồng các doanh nghiệp, lực lượng vũ trang và đặc biệt là sự chủ động, tích cực vào cuộc của nhân dân với vai trò là chủ thể nên đã đạt được những kết quả quan trọng: đến tháng 6/2013 các tiêu chí nông thôn mới ở xã Điền Công, xã Thượng Yên Công đã cơ bản hoàn thành, ngày 26/01/2015 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 223/QĐ-UBND công nhận xã Điền Công, xã Thượng Yên Công đạt chuẩn tiêu chí nông thôn mới đợt I/2015. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội khu vực nông thôn, nhất là hạ tầng giao thông, điện - nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế, các thiết chế văn hoá... được quan tâm đầu tư, 95% tuyến đường giao thông chính của xã, phường được thảm nhựa và bê tông hoá, 96% số hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới.

Công tác tài chính ngân sách, đã tích cực chủ động tạo nguồn lực tài chính, tăng cường phân cấp quản lý ngân sách cho các xã, phường, các phòng ban tạo thế chủ động cho các cơ sở trong khai thác nuôi dưỡng nguồn thu, quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách. Từ năm 2011, địa phương đã được tỉnh giao nhiệm vụ tự cân đối thu chi ngân sách. Giai đoạn 2011- 2014 thu ngân sách nhà nước có sự biến động tăng, giảm qua các năm song tổng 5 năm tốc độ tăng trung bình đạt 16,97% vượt 7,43% so Nghị quyết đại hội XVIII đề ra (Biểu số 2). Bình quân mỗi năm, thu ngân sách nhà nước đạt 1.856 tỷ đồng; thu ngân sách địa phương đạt bình quân 424 tỷ đồng, đảm bảo nguồn chi phục vụ nhiệm vụ chính trị của Thành phố và chi cho đầu tư phát triển, đặc biệt là chi cho đảm bảo an sinh xã hội (Biểu số 2).

Công tác thu hút đầu tư có tiến bộ vượt bậc: Môi trường đầu tư có sự cải thiện đáng kể, trong 5 năm đã thu hút được 79 dự án đầu tư trên các lĩnh vực: hạ tầng, sản xuất, kinh doanh 8...

Tổng mức đầu tư toàn xã hội trên địa bàn thành phố trong 5 năm (2010-2014) đạt trên 16.960 tỷ đồng. Tỷ trọng đầu tư đối với các nguồn vốn: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 6,4%, vốn đầu tư từ ngoài ngân sách chiếm 93,6% (Biểu số 3). Tổng đầu tư theo kế hoạch của Thành phố trong nhiệm kỳ qua là 506 công trình với tổng mức đầu tư trên 1.092 tỷ đồng. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thành phố đã quyết định đình, giãn, hoãn 46 công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung cho giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản, đồng thời cơ cấu lại đầu tư để hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Thực hiện thí điểm mô hình hợp tác "công - tư" đối với 05 dự án công trình trên địa bàn.



Thành phố đã tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp phát triển, tăng về số lượng, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, đa dạng hoá về loại hình. Đến nay, tổng số doanh nghiệp trên địa bàn là: 428 doanh nghiệp, trong đó: Doanh nghiệp TW là: 22; doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước là 406 (230 Công ty TNHH, 116 Công ty cổ phần, 41 doanh nghiệp tư nhân, 05 HTX phi nông nghiệp, 11 HTX dịch vụ nông nghiệp).

Công tác quy hoạch và phát triển đô thị có sự đột phá Chỉ đạo hoàn thành các quy hoạch ngành, một số quy hoạch khu dân cư theo kế hoạch. Tổng số các đồ án quy hoạch đã được phê duyệt: 112 đồ án, gồm: Quy hoạch tỉ lệ 1/2000 có 10 đồ án, Quy hoạch chi tiết 1/500 có 102 đồ án; Quy hoạch cấp đất xen cư: 158 điểm. Đối với các quy hoạch chiến lược, thành phố đã thuê các Công ty tư vấn hàng đầu thế giới BCG, Nikken sekkei: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Uông Bí đến năm 2020 tầm nhìn 2030; Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050. Các Quy hoạch phát triển dịch vụ thương mại vùng đệm Yên Tử giai đoạn đến 2020 tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực được các đơn vị tư vấn trong nước phối hợp thực hiện. Hiện nay các quy hoạch đã hoàn thiện trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. 5 năm qua, thành phố tập trung phát triển hạ tầng kỹ thuật, phục vụ lộ trình thành lập Thành phố và nâng cấp đô thị từ loại 3 lên đô thị loại 2. nhiều khu đô thị mới được hình thành; các tuyến phố được nâng cấp, chỉnh trang: Từ năm 2010-2014 đã đầu tư xây dựng 55,7 Km đường giao thông; 60,75 km tuyến rãnh tiêu thoát nước; 25,6 km tuyến đường điện chiếu sáng; xây mới và nâng cấp: 68,79 km tuyến ống cấp nước. Đầu tư cải tạo lại hệ thống cấp nước trên địa bàn với tổng chiều dài 105 km; làm mới 222.800 m2 vỉa hè. Công tác quản lý nhà nước về đô thị và môi trường được tăng cường; công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, công tác tuyên truyền vận động và xử lý các sai phạm về thực hiện các quy định bảo vệ môi trường, trật tự đô thị được thực hiện nghiêm túc, có tác dụng tích cực trong việc nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường và hình thành nếp sống văn minh đô thị trong nhân dân.

2. Văn hoá - xã hội có những tiến bộ mới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao (Biểu số 4)

Văn hoá, thông tin, thể thao: công tác thông tin, tuyên truyền được phát huy, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Các hoạt động chào mừng các ngày lễ kỷ niệm lớn, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, của tỉnh, thành phố được tổ chức quy mô, chất lượng và thiết thực hơn. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" tiếp tục được đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả 9. Quản lý nhà nước về văn hoá, dịch vụ văn hoá, thể thao, môi trường kinh doanh du lịch được tăng cường. Hoạt động văn hoá, thể dục thể thao có bước phát triển mạnh cả về lượng và chất; lĩnh vực thể thao mũi nhọn được duy trì phát huy. Phong trào văn hoá văn nghệ, thể thao quần chúng phát triển rộng khắp, hình thức đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu tham gia, hưởng thụ của nhân dân. Tham gia các hội thi, hội diễn, giải thể thao do Tỉnh tổ chức đều đạt giải cao: liên tục nhất toàn đoàn Hội diễn nghệ thuật quần chúng, giữ vững truyền thống 44 năm vô địch toàn đoàn giải việt dã truyền thống tỉnh Quảng Ninh .

Giáo dục - đào tạo: Chất lượng dạy và học được nâng cao, tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 100% (Biểu số 5). Công tác quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo được tăng cường. Tiếp tục ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học; quan tâm công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, các phong trào thi đua, cuộc vận động trong ngành Giáo dục được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.

Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn từng bước được nâng cấp. Phân hiệu Trường Đại học Ngoại thương được thành lập, đi vào hoạt động, ngày càng phát triển quy mô trường lớp và số lượng sinh viên. Ngày 20/12/2014, Trường Đại học Hạ Long chính thức được công bố thành lập và đi vào hoạt động. Các trường đều tích cực đầu tư về đội ngũ, cơ sở vật chất, mở rộng, đa dạng loại hình đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố cho tỉnh và khu vực.



Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và lao động, thương binh - xã hội được chú trọng: Thực hiện tốt các mục tiêu, dự án, chương trình quốc gia về Y tế, Dân số - KHHGĐ. Phối hợp thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về y tế, phòng chống dịch bệnh ở người, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý hành nghề y, dược tư nhân. Công tác khám, chữa bệnh tại các cơ sở Y tế được củng cố. Tích cực triển khai Đề án mở rộng Bệnh viện Việt Nam - Thuỵ Điển; đầu tư cơ sở vật chất cho Trung tâm Y tế Thành phố, trạm y tế xã phường; 100% xã phường đạt chuẩn Quốc gia về y tế xã theo Bộ tiêu chí mới. Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên: 1,72%/năm. Số giường bệnh đạt 92 giường/1 vạn dân, tỷ lệ xử lý rác thải rắn y tế đạt 100%. Các chỉ tiêu về lĩnh vực y tế, dân số đều đạt và vượt so với Nghị quyết đề ra.

Cơ cấu lao động trên địa bàn Thành phố có sự chuyển đổi tích cực về khu vực và ngành nghề theo hướng tăng tỷ lệ lao động trong ngành thương mại, dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, nông thôn. Trong 5 năm, đã tạo việc làm mới cho 21.500 lượt lao động, bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 4.300 lượt lao động.

Công tác chăm sóc gia đình thương binh liệt sỹ, người có công; phong trào đền ơn đáp nghĩa, thăm hỏi tặng quà, trợ giúp đối tượng chính sách được thực hiện nghiêm túc và được đặc biệt quan tâm: 100% gia đình TBLS, người có công với cách mạng đã có mức sống trung bình khá trở lên. Trong nhiệm kỳ, đã hỗ trợ xây mới và tu sửa nhà ở cho 320 gia đình người có công, với số tiền là 9,56 tỷ đồng. Đã tổ chức Tôn vinh danh hiệu Nhà nước 13 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hướng dẫn và tiếp nhận 409 hồ sơ người hoạt động kháng chiến đề nghị hưởng chế độ đối với người nhiễm chất độc hoá học. Duy trì 11/11 xã, phường lành mạnh không phát sinh các tệ nạn xã hội; xây dựng các mô hình để người lầm lỗi tái hòa nhập cộng đồng.     

Phong trào hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo được quan tâm và mang lại hiệu quả thiết thực góp phần giảm đáng kể số hộ nghèo 10, đến 31/12/2014 tỷ lệ hộ nghèo của toàn thành phố còn 0,95%.



3. Quốc phòng, an ninh được củng cố; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững

Ban thường vụ Thành uỷ và các cấp uỷ Đảng luôn quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhà nước, các chỉ đạo của tỉnh về quốc phòng - an ninh. Chỉ đạo thành lập và duy trì tốt hoạt động của các cụm quốc phòng - an ninh; tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp thành phố và cấp cơ sở đạt kết quả tốt. Lực lượng vũ trang địa phương được quan tâm, chăm lo xây dựng. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng- an ninh có nhiều đổi mới. Công tác khám tuyển và gọi công dân nhập ngũ được thực hiện chặt chẽ, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng: đảm bảo 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm với tổng số 750 công dân (trong đó có 200 thanh niên tình nguyện). Chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, khả năng cơ động, xử lý các tình huống về an ninh chính trị, phòng chống lụt bão, phòng chống cháy nổ, tìm kiếm cứu nạn ngày càng được nâng cao. Đã lập quy hoạch và từng bước đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ, khu căn cứ chiến đấu, trung tâm tìm kiếm cứu nạn.



Nhạy bén, quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, do vậy đã giữ vững địa bàn ổn định, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. An ninh trong vùng tôn giáo, vùng dân tộc, khu vực nông thôn, đô thị, cơ quan, doanh nghiệp được đảm bảo. Công tác quản lý người nước ngoài, quản lý đối tượng chặt chẽ, đúng quy định. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai tích cực, đạt hiệu quả cao, nhiều mô hình mới được đưa vào hoạt động, như: Tổ nhân dân tự quản, mô hình tự quản về an ninh, tuần tra bảo vệ ban đêm; xây dựng lực lượng xung kích bảo đảm ANTT của 11/11 xã, phường. Các biện pháp về bảo đảm trật tự an toàn giao thông được triển khai đồng bộ, quyết liệt. Phát động, triển khai tốt phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” trong lực lượng Công an. Hỗ trợ nguồn lực đáng kể cho quốc phòng - an ninh từ ngân sách thành phố (hỗ trợ Công an thành phố kinh phí giải phóng mặt bằng trụ sở, tạo điều kiện chỗ làm việc cho Đội giao thông; hỗ trợ Ban chỉ huy quân sự và các đơn vị quân đội trên địa bàn…)

4. Công tác xây dựng Đảng tiếp tục được đổi mới, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng được nâng lên

4.1. Kết quả các lĩnh vực công tác xây dựng Đảng

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều đổi mới, thiết thực: Đã gắn công tác tư tưởng với thực hiện nhiệm vụ chính trị, giải quyết những vấn đề quan trọng, nhạy cảm, phức tạp, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, chính quyền, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Việc triển khai các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng luôn kịp thời, đảm bảo chất lượng; đã tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, của Tỉnh ủy, xây dựng chương trình hành động, chương trình công tác của Đảng bộ. Ban hành nghị quyết lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị của địa phương; các nghị quyết, chương trình hành động của Ban chấp hành Đảng bộ bám sát tình hình thực tiễn với nhiều giải pháp thiết thực có tính khả thi cao đi vào cuộc sống. Công tác sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng được coi trọng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được tiến hành thường xuyên gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đã phát huy hiệu quả hoạt động của Đài truyền thanh - truyền hình và hệ thống loa truyền thanh phường, xã. Công tác nắm tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội được quan tâm đặc biệt và đã có nhiều chuyển biến tích cực 11.

Công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ có nhiều đổi mới Thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với quy mô, chức năng, nhiệm vụ theo từng loại hình nhất là các chi bộ trực thuộc đảng bộ phường, xã và chi bộ cơ quan, doanh nghiệp. Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ; kiện toàn cấp ủy các cơ sở đảng trực thuộc; nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác phát triển tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên được đầu tư, trong năm 2014 đã thành lập tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (Biểu số 6); trong nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố đã sát nhập 05 cơ sở Đảng và thành lập mới 09 cơ sở Đảng. Đến nay có 51 cơ sở Đảng, trong đó: 27 đảng bộ và 24 chi bộ, tổng số đảng viên là 6.238; trong 5 năm kết nạp được 1.336 đảng viên mới, đạt tỷ lệ bình quân 4,71%/năm so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ (Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII đề ra là 4% trở lên). Công tác bảo vệ chính trị nội bộ; thực hiện chính sách cán bộ; chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cán bộ được quan tâm tốt hơn. Việc quản lý và phân công nhiệm vụ cho đảng viên; đánh giá tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên; tổng kết, biểu dương, khen thưởng được tiến hành thực chất hơn, đã cơ bản khắc phục bệnh thành tích. Chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng được nâng cao, chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ, của chi bộ theo hướng tích cực. Hàng năm số cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh chiếm tỷ lệ cao: 88,84%, riêng năm 2014 triển khai thực hiện theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương có 50% cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh; không có cơ sở yếu kém 12; nghiêm túc triển khai thực hiện Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị.

Công tác kiểm tra, giám sát giữ gìn kỷ luật Đảng của cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả hơn, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Công tác lãnh, chỉ đạo, phương pháp kiểm tra, giám sát có nhiều đổi mới: kiểm tra giám sát ngay từ khi mới triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết. Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá và chương trình công tác năm (Biểu số 7). Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu, nội dung được dư luận quan tâm. Từ năm 2010 đến nay, đã tự kiểm tra 11cuộc, 04 cuộc giám sát chuyên đề và các cuộc giám sát thường xuyên. UBKT Thành ủy nhận và kiểm tra giải quyết 21 đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến cán bộ đảng viên, giám sát thường xuyên đối với các tổ chức cơ sở đảng và trên 6.000 đảng viên.

Qua kiểm tra, giám sát đã chỉ rõ những ưu điểm để phát huy, tồn tại, yếu kém để khắc phục, góp phần ngăn ngừa sai phạm khi còn mới manh nha, kiên quyết xử lý khi có vi phạm, đồng thời đề ra những giải pháp để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên từng lĩnh vực.



Công tác dân vận đã được cấp uỷ, chính quyền các cấp chú trọng chỉ đạo thực hiện, đổi mới theo hướng sát dân, sát cơ sở. Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, tổ chức thực hiện nghiêm túc, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị thường xuyên trọng tâm và các nhiệm vụ đột xuất. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, đoàn thể trong công tác tuyên truyền vận động được tăng cường, hướng về cơ sở, nội dung sát với yêu cầu thực tiễn, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, các việc khó, các vấn đề bức xúc phát sinh trong đời sống xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động của khối dân vận cơ sở, quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương (khóa XI) về công tác vận động quần chúng. Thông qua hoạt động thực tiễn, xuất hiện nhiều mô hình “Dân vận khéo” ở các xã phường, cơ quan, đơn vị. Công tác dân vận chính quyền được coi trọng, đã sử dụng nhiều hơn công tác vận động, thuyết phục trong giải quyết các công việc liên quan đến tổ chức và công dân; tích cực áp dụng phương pháp đối thoại giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhân dân, khắc phục lối làm việc hành chính, xa dân. Đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường nắm bắt diễn biến tư tưởng trong nhân dân, chủ động giải quyết những kiến nghị, khiếu nại, nguyện vọng chính đáng của nhân dân(13) .

4.2. Thực hiện Đề án “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”; căn cứ đặc điểm tình hình và yêu cầu thực tiễn, Thành ủy đã xác định việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế” là nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm hàng đầu năm 2014 và những năm tiếp theo. Ban Chấp hành Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy các cấp nghiêm túc trong việc xây dựng và triển khai, đồng thời thực hiện công khai, lấy ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đề án đã đề ra 08 nhóm giải pháp về việc nâng cao năng lực, sức chiến đấu; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; 04 nhóm giải pháp về tinh giản bộ máy và 04 nhóm giải pháp về tinh giản biên chế. Qua hơn một năm vừa xây dựng, vừa thực hiện bước đầu đã đạt được một số kết quả: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng lên rõ nét, tổ chức bộ máy được tinh gọn, công tác cán bộ được bố trí hợp lý, việc nhất thể hoá các chức danh từ thôn, khu dân cư đến xã phường, thành phố được thực hiện nghiêm túc, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình. (Đến nay đã có 87/101 thôn, khu Bí thư kiêm trưởng thôn, khu; 5/11 xã, phường đồng chí Bí thư kiêm Chủ tịch UBND; nhất thể hoá chức danh Trưởng Ban Tuyên giáo kiêm Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố).

4.3. Nghiêm túc thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Tổ chức hội nghị kiểm điểm từ Ban Thường vụ đến các chi, đảng bộ cơ sở; các phòng, ban, đơn vị. Kết quả, có 1.415 ý kiến của tập thể và cá nhân đóng góp cho tập thể và cá nhân Ủy viên Ban Thường vụ, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố; trong đó: 135 ý kiến góp ý cho tập thể và cá nhân các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy; 1.280 ý kiến góp ý cho tập thể và cá nhân các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố.

Đối với 2 nội dung được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gợi ý (1)Trong thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng còn để xảy ra khiếu kiện kéo dài, đông người trên địa bàn thành phố; (2)Việc chậm triển khai và kiến nghị thực hiện một số nội dung trong Thông báo số 563-TB/TU ngày 21/3/2012 của Thường trực Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh trong buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Uông Bí về nhiệm vụ trọng tâm năm 2012). Với tinh thần nghiêm túc, thẳng thắn, chân thành, dân chủ, cầu thị trong kiểm điểm, Ban Thường vụ Thành ủy Uông Bí đã rút kinh nghiệm sâu sắc, đồng thời tìm ra các nguyên nhân từ đó đề ra các giải pháp nhằm khắc phục. Đến nay, các tồn tại, hạn chế đã được khắc phục, vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, của người đứng đầu được nâng lên rõ rệt.

Sau gần ba năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung ương, việc triển khai chỉ thị đã bảo đảm tốt yêu cầu chuyển mạnh từ “học tập” sang “làm theo” với nhiều nội dung cụ thể, thiết thực. Tập trung vào giải quyết tồn tại, hạn chế, bức xúc trong nhân dân. Đã xuất hiện nhiều cách làm hay, sáng tạo, nhiều mô hình phù hợp với tình hình thực tế của địa phương14. Trong dịp kỷ niệm 50 năm Bác Hồ về thăm Uông Bí, thành phố đã vinh danh 20 tập thể, 50 cá nhân điển hình xuất sắc làm theo lời Bác.

Việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện chỉ thị 03-CT/TW đã trở thành sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ. Với sự nghiêm túc, thẳng thắn, trách nhiệm, gương mẫu trong tự phê bình và phê bình của các cấp ủy và cá nhân mỗi cán bộ lãnh đạo, đảng viên đã và đang có sức lan toả mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào đội ngũ cán bộ và sự lãnh đạo của Đảng.



4.4. Công tác cải cách tư pháp được quan tâm chỉ đạo hiệu quả

Triển khai đồng bộ các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương về cải cách tư pháp. Tăng cường cơ chế lãnh đạo tư pháp theo hướng sâu sát, đúng chủ trương; chỉ đạo các cơ quan tư pháp hoạt động có hiệu quả; điều tra, truy tố, xét xử, thi hành các vụ án đạt chất lượng; tiến đến đẩy lùi tình hình phạm tội, không để xảy ra án oan giảm thiểu sai sót, không bỏ lọt tội phạm; ổn định các quan hệ dân sự; bước đầu giải quyết tốt khiếu kiện hành chính. Đã tiến hành xã hội hóa hoạt động công chứng; thí điểm chế định thừa phát lại; khắc phục khó khăn, hạn chế trong công tác thi hành án; thực hiện chủ trương cơ cấu lãnh đạo Viện Kiểm sát, Tòa án tham gia cấp ủy địa phương; tăng cường công tác giám sát đối với lĩnh vực tư pháp.



4.5. Đẩy mạnh toàn diện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực

Tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thể hiện rõ quyết tâm làm trong sạch bộ máy, loại bỏ trở lực góp phần thúc đẩy sự phát triển. Chủ động phòng ngừa một cách đồng bộ, có hệ thống, thông qua xây dựng tổ chức, cơ chế; gắn công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí với từng nhiệm vụ trọng tâm của thành phố; đưa vào hoạt động Trung tâm phục vụ hành chính công, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công... Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc tăng tính răn đe. Kiên quyết xử lý sai phạm không có “vùng cấm”. Duy trì thường xuyên công tác giao ban đối với các ngành trong khối nội chính để kịp thời chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn thành phố. Trong 5 năm đã phối hợp với các cơ quan chức năng của Quốc hội và tỉnh chỉ đạo tiến hành 12 cuộc kiểm tra, kiểm toán (trong đó 8 cuộc kiểm tra, 4 cuộc kiểm toán) trên lĩnh vực quản lý tài chính, đầu tư công trong xây dựng cơ bản, trách nhiệm của người đứng đầu quản lý.




tải về 0.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương