Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch



tải về 308.62 Kb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích308.62 Kb.
#28174
  1   2

Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch


MỞ ĐẦU

  1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam,sân khấu là loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc.Đây được coi là loại hình nghệ thuật thứ 6 của nhân loại.Được hình thành và phát triển rất sớm.Trải qua bao trầm của lịch sử ngày nay nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam.

Khi nói tới loại hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam thì không thể không nhắc đến nghệ thuật sân khấu chèo. chèo là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời.nghệ thuật sân khấu chèo ở Việt Nam ra đời trong những chiếc nôi chèo đầu tiên của vùng đồng bằng Bắc Bộ tiêu biểu: Chiếng chèo Nam (Nam Định - Thái Bình), chiếng chèo Đoài (Hà Tây), chiếng chèo Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang), chiếng chèo Đông (Hải Dương - Hưng Yên).Ngày nay loại hình nghệ thuật sân khấu này phát triển rộng rãi trong cả nước và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân.Sân khấu chèo không chỉ trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam mà còn gây tiếng vang tại nước ngoài.Hải Dương cũng là một trong những nơi có nghệ thuật hát Chèo từ lâu đời. Hiện nay nghệ thuật Sân khấu chèo ở Hải Dương thực sự có sức hấp dẫn và để laị nhiều ấn tượng cho người xem.Nhưng việc khai thác nghệ thuật chèo vào phát triển du lịch thì vẫn còn chưa được khai thác triệt để.Chính vì vậy để góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào phát triển du lịch của quê hương người viết dã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch”

Việc khai thác nghệ thuạt chèo Hải Dương hiệu quả trong du lịch chính là một cách góp phần vào việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này, đồng thời cũng là một cách giới thiệu với bạn bè gần xa về kiệt tác phi vật thể này của Hải Dương nói riêng và của Việt Nam nói chung, đóng góp vào ngân sách chung của ngành du lịch cả nước.

2 . MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI.

Chèo là loại hình nghệ thuật có từ xa xưa trong nền văn hoá Việt Nam. Đây cũng là một nét tiêu biểu trong văn hoá ứng xử của dân tộc.Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu chèo cho chúng ta hiểu về một góc của nền văn hoá dân tộc đồng thời từ đó tìm hướng đi để gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ta hiện nay.

3.NHIỆM VỤ

Nghiên cứu và tìm hiểu nghệ thuật chèo nói chung và những nét đặc sắc của nghệ thuật chèo ở Hải Dương nói riêng từ đó tìm hướng để gìn giữ,bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống,kết hợp với tài nguyên du lịch để phục vụ cho phát triển du lịch tại Hải Dương.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Tìm hiểu nghệ thuật chèo tại nhà hát chèo Hải Dương

5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp thu thập và xử lí số liệu; phương pháp thực địa; phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp.

Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu:

Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.



Phương pháp thực địa:

Quá trình thực địa giúp sưu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận được thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài .



Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp:

Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghien cứu

6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu - kết luận - tài liệu tham khảo - mục lục, đề tài

được chia làm 3 chương:

Chương 1. Khái quát chung về nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống.

Chương 2.Tìm hiểu nghệ thuật chèo Hải Dương.

Chương 3. Hiện trạng phát triển. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và khai thác hiệu quả nghệ thuật chèo Hải Dương nhằm phát triển du lịch.

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG.


    1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chèo.

1.1.1 Câu chuyện truyền thuyết Bà tổ của nghề hát chèo

Bà tổ của nghề hát chèo là bà Phạm Thị Trân, sinh năm 926, mất năm 976, quê quán: Hồng Châu (ngày nay gọi là tỉnh Hải Dương và Hưng Yên).Hải Dương và Hưng Yên nằm giữa vùng châu thổ sông Hồng, đông dân, giàu của, phát triển sớm từ thời bình minh dựng nước, xóm làng trù phú, đồng ruộng thẳng cánh cò bay

Sử sách Việt Nam còn ghi chép, bà Phạm Thị Trân sống vào thời Đinh Tiên Hoàng và Tiền Lê (Lê Hoàn). Là người phụ nữ nhan sắc, lại có tài múa hát nổi tiếng từ nhỏ. Bà luôn giữ vai trò chủ chốt trong các nhóm, các đoàn đi múa hát và làm trò thời đó. Lời ca tiếng hát của bà được các quan khách và người dân lao động hết lời ca ngợi, người xem bà múa hát đã thốt thành thơ:

Múa hát như muốn hát bàn đào

Hát giục mây bay, giục gió ào

Tiếng hát kinh hồn quân bạc ác

Lời than làm nhỏ lệ đồng bào

  Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho mời bà về Hoa Lư (kinh đô của Việt Nam lúc đó) và phong cho bà chức ưu Bà - chịu trách nhiệm dạy quân lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò, lúc đó gọi là hát trò nhời hay gọi là hát chèo. Lời ca của bà mang tinh thần thượng võ yêu nước:



Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh

Bất diệt thù hề, bất nguyện sinh.

Trong sách “Đả cố lục” còn ghi lại: cách rước trống chèo nhà Đinh của bà Phạm Thị Trân đã có sức cổ vũ lớn đối với tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Nghệ thuật hát chèo manh nha từ thời đó. Cả vùng quê rộng lớn Hải Dương, Hưng Yên phát triển hát chèo. Cũng chính nơi đây sau này đã cung cấp cho ngành hát chèo Việt Nam những nghệ nhân ưu tú, tài ba và góp phần truyền thụ cho thế hệ sau thừa kế một nền nghệ thuật dân tộc độc đáo đã đi vào đời sống của nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm nay. Ngày nay vào dịp tháng giêng, tháng hai sau vụ gặt lúa, nhân dân vùng Hải Dương, Hưng Yên lại tổ chức hội làng, trong đó hát chèo giữ một vai trò quan trọng, là linh hồn không thể thiếu của ngày hội.

 Khi bà mất, nhân dân Hải Dương và Hưng Yên đã tôn bà là Bà tổ của nghề hát chèo. Trong các nhà thờ, chùa của các làng bài vị thờ bà thường đặt chính giữa.Hàng năm cứ đến ngày 18/2 âm lịch, nhân dân Hải Dương và Hưng Yên lại tổ chức giỗ bà Phạm Thị Trân - bà tổ của nghề hát chèo.

1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của chèo

Có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tóm tắt một số ý kiến đã phát biểu từ trước đến nay, về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của Chèo như sau:

Chèo có nguồn gốc ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết;


Chèo khởi lên từ Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân đang khi đưa tang vua Trần Nhân Tông:
Chèo chỉ động tác chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát từ trò tang lễ và lao động;
Chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú lâu đời Việt Nam;
Chèo là biến âm của Trào, sau được gọi là Chèo.Chèo được gắn với động tác chèo thuyền tồn tại trong đời sống và tín ngưỡng phong tục lâu đời của người Việt.

Chèo đi ra từ nghi lễ tôn giáo cổ xưa.Chèo là loại hình sân khấu nảy sinh và phát triển từ nền ca vũ nhạc dân tộc và sinh hoạt văn hóa dân gian.

Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm.

Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này.

Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng.

Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.



    1. Đặc trưng nghệ thuật của Chèo

      1. Về tên gọi của Chèo

Chèo là biến âm của trào sau gọi chệch đi là chèo.Chèo gắn với động tác chèo thuyền tồn tại trong đời sống và trong tín ngưỡng phong tục lâu đời của người việt. Chèo đi ra từ nghi lễ tôn giáo cổ xưa.

Chèo là loại hình sân khấu nảy sinh phát triển từ nền ca vũ nhạc dân tộc và những sinh hoạt văn hóa dân gian.



      1. Nội dung của Chèo.

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.



      1. Nhân vật trong Chèo

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..

Đặc điểm nổi bật của Chèo là sự xuất hiện của yếu tố hài qua nhân vật hề tạo nên giá trị thẩm mĩ độc đáo. "Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn

Hề áo ngắn ( hề tích cực) đại diện cho những người lao động tích cực nghèo khổ,địa vị thấp kém nhưng thông minh đứng lên trên quan điểm của nhân dân để phê phán giai cấp thống trị tiêu iểu như hề Mồi, hề Gậy, Mẹ mõ, Lính canh

Hề áo dài đại diện cho tầng lớp trên quan lại, hào lý, thầy đồ, thầy bói … họ tuej bộc lộ bản chất tham lam ngu ngốc giả dối.


      1. Kĩ thuật kịch

Chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó.

Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.



      1. Âm nhạc trong chèo.

 Nói tới đặc trưng của nghệ thuật Chèo người ta thường nghĩ ngay tới tính chất cách điệu của nó. Dĩ nhiên còn nhiều yếu tố khác nữa, nhưng tính chất cách điệu theo lối Chèo được xem như yếu tố bao trùm và nổi bật để nhận diện và phân biệt Chèo với các môn nghệ thuật khác. Chính từ ý nghĩa đó danh xưng Chèo có lúc biến thành tính từ để chỉ tính chất một cử chỉ, một giọng nói, một cách ứng xử có phần khác thường với đời sống thường nhật, mang một vẻ rất riêng như: “Cô ấy đi đứng nói năng rất chèo!”.

          Chèo – suy cho cùng là một dạng ca kịch đặc thù Việt Nam lấy âm nhạc làm phương tiện chủ yếu. Tuy vậy vẫn còn quan niệm đơn giản cho rằng phần âm nhạc của nó chỉ biểu hiện qua các làn điệu hát (bao gồm cả các làn điệu hát – nói như lối nói sử, nói chênh, nói lệch, nói lối, nói đếm, kể hạnh…) mà không chú tâm tới tính âm nhạc của lối nói thường chiếm lĩnh một thời lượng lớn trong tiến trình Chèo.

             Âm nhạc trong Chèo biểu thị qua ba hình thức: hát, hát – nói và nói. Ngoài ra còn ở những trạng thái không lời khác.

          Về Hát, được biểu hiện qua các điệu như Sa lệch, Đường trường, Vãn, Sắp… với những giai điệu và tiết tấu được định hình thành những bài bản cố định nhằm mô tả một trạng thái tâm lý, một tình huống nào đó mang những sắc thái riêng biệt.

          Về loại Hát – nói, biểu hiện qua các làn như vỉa, ngâm, nói sử, nói chênh, nói lệch, nói lối… là những phương tiện tạo nên hơi Chèo. Loại này thường không định hình nghiêm ngặt như các điệu hát, mà tiến hành giai điệu một cách tự do về tiết tấu dựa trên sự dẫn dắt của lời thơ, thường dùng trong những trường hợp: đối cảnh sinh tình, suy tư, gợi cảm hoặc bắc cầu nối vào những điệu hát mang tính chất riêng biệt.

          Hình thức biểu hiện thứ ba của âm nhạc Chèo là Nói.

          Nói trong Chèo là một phương tiện biểu hiện rất phong phú và đa dạng, bao gồm cách nói của người trung, kẻ nịnh, của vai chín, vai hề, của lão say, tiên ông, của mục đồng, tiểu tốt… Lại có cả cái trang trọng của vua, cái thâm trầm hiền sĩ, cái yểu điệu thục nữ, cái dân dã thôn làng, cái oai phong tướng sĩ… Tất cả được phủ lên một sắc thái âm nhạc rất tinh tế, hình thành nên lối nói Chèo – một trong những nét đặc trưng quan trọng nhất của ngôn ngữ, thi pháp thể loại. Với một cách nhìn thấu đáo thì nghệ thuật nói trong Chèo hàm chứa đủ cả những thành tố của ngôn ngữ âm nhạc như độ cao thấp (cao độ), độ dài ngắn (trường độ), độ mạnh nhẹ (cường độ) và độ tối sáng, thuận nghịch mang tính kịch rõ nét.

          Thanh điệu tiếng Việt được tạo thành bởi các cung bậc: thanh huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng mang tính âm nhạc cao. Văn trong Chèo lại là văn biền ngẫu có cấu trúc vần điệu cân đối cùng với văn vần, lục bát và các biến thể thơ khác đã tạo nên một sự cách điệu mang tính âm nhạc trong sự diễn đạt lời nói thông thường trong quá trình kể chuyện của Chèo. Đó là điểm khác biệt lớn giữa Chèo với thể loại kịch nói. Cách nói của kịch gần với lối nói thông thường trong đời sống. Còn cách nói Chèo lại như được phủ lên một tấm màn nhung mượt mà thấm đậm chất nhạc, chất thơ. Yếu tố cao độ của âm nhạc được chỉ định bởi dấu giọng của lời thơ, lại được phát ra trong một giọng (ton) nhạc ở độ cao nhất định đã tạo nên cái “hơi nhạc” của tiến trình Chèo. Nếu người diễn không “bám” được vào cái hơi giọng đó thì rất khó bắt vào các làn hát và sẽ có hiện tượng lạc giọng, ngang cung.

1.2.6 Nhạc cụ

Dàn nhạc chèo đóng vai trò quan trọng cho biểu diễn và ca hát của diễn viên. Vì vậy thành phần các nhạc cụ dàn nhạc tương đối phong phú. Dàn nhạc chèo gồm có các nhạc cụ gõ và các nhạc cụ ti, trúc như sau: Nhạc gõ có trống đế, trống cơm, trống ban, trống bộc, trống cái, mõ, thanh la, chuông, tiu, cảnh, não bạt, sinh tiền. Nhạc ti trúc có: Nhị, hồ, nguyệt, tam, bầu, tam thập lục, tiêu, sáo. Tuỳ vào các tình huống của câu chuyện kịch mà người ta sử dụng nhạc cụ khác nhau cho phù hợp.Nhưng hầu như trong một vở chèo bao gồm những nhạc khí chủ yếu là Trống,bộ gõ đầy đủ có trống cái,trống con,trống cơm,sênh, thanh la,mõ.và hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệtđàn nhị, sáo.



1.2.6.1 Trống Cái

Trống cái là nhạc cụ không định âm, to lớn, xuất hiện ở khắp nước Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Dù ở đồng bằng hay miền núi người ta đều nhận ra sự có mặt của trống cái. Loại trống này có hình trụ khum với hai mặt trống bịt da trâu bò có đường kính từ 50, 60 cm trở lên. Tang trống bằng gỗ, thân trống có một quai xách để treo trống. Nếu không sử dụng quai này người ta có thể đặt trống trên giá gỗ hay kim loại.

Âm thanh trống trầm và vang xa. Người ta có thể dùng một hoặc hai dùi gỗ để đánh trống (tùy theo tính chất của công việc). Cách đánh trống có nhiều cách : đánh giữa mặt trống, rìa mặt trống, tang trống hay đáng bạt dùi … Mỗi cách đều tạo âm sắc riêng. Có thể đánh nhanh hoặc chậm tùy trường hợp.

Trong Chèo Trống cái dùng đánh điểm để thông tin, đánh điểm gây không khí,tạo cao trào.Ngoài ra được sử dụng trong những dàn nhạc. Vào thế kỷ 15 và 16 trống cái đã xuất hiện trong các dàn nhạc như Đường thượng chi nhạc và Nhã nhạc. Đến thế kỷ 18 người ta nhận thấy sự có mặt của nó trong dàn nhạc lễ và trong các ban nhạc sân khấu như tuồng, chèo để tạo không khí kịch tính. Ở Tây Nguyên trống cái tham gia hòa tấu với dàn nhạc cồng chiêng, xuất hiện trong đám múa sư tử, điệu xòe (của người Thái).



        1. Trống cơm

Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam (đời nhà Lý). Đây là nhạc cụ , định âm, còn có tên gọi khác là phạn cổ (phạn là cơm, cổ là trống). Trong các ban nhạc tuồng, chèo và ban nhạc tang lễ ngày xưa có loại trống này. Nhiều ban nhạc ngày nay cũng sử dụng trống cơm.

Trước khi đánh trống người ta thường lấy cơm nghiền nát, trét vào giữa mặt trống để định âm, do đó trống này gọi là "trống cơm".

Trống cơm có 2 mặt trống hình tròn bằng nhau, đường kính khoảng 15cm. Mặt trống bịt da, đường viền buộc bằng sợi mây hay da (dây xạ) kéo từ đầu trống này sang đầu trống kia để chỉnh độ căng giữa 2 mặt trống. Tang trống bằng gỗ hình ống tròn, hai đầu hơi khum lại, đường kính ở tang trống đoạn giữa lớn hơn đường kính mặt trống. Tang trống để mộc hoặc sơn đỏ.

Có loại trống cơm đường viền đóng bằng đinh tre vào tang trống. Người ta trét cơm (thường là cơm nóng) vào giữa để định âm. Nếu trét nhiều cơm thì âm thanh phát ra trầm, ít cơm thì âm thanh sẽ cao hơn.Hai mặt trống cách nhau một quãng năm đúng.

Trống cơm có âm thanh vang nhưng mờ đục, diễn tả tốt tình cảm buồn, sâu sắc. Tiếng trống cơm nghe gần giống tiếng đàn hồ lớn bật dây nên đôi lúc người ta sử dụng nó thay âm thanh đàn hồ lớn trong những âm trầm nhất định nào đó. Tùy theo chất cơm trét mặt trống âm thanh phát ra sẽ có chất lượng tốt hay xấu tương ứng. Để diễn trống này người ta đeo trống bằng 1 dây da quàng qua cổ, đặt trống ngang trước bụng rồi dùng 2 tay vỗ vào 2 mặt trống. Tay trái vỗ vào mặt thổ phát ra âm trầm, tay phải vỗ vào mặt kim phát ra âm cao.

Trống cơm có kỹ thuật diễn chính như đánh chập (tay trái vỗ mặt thổ, tay phải bịt mặt kim), ngón vê (dùng ngón tay hoặc bàn tay chạm liên tục thật nhanh trên mặt trống



        1. Trống Đế

Trống đế là nhạc cụ gõ, xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong Chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong Ca trù gọi là trống chầu. Nhìn chung nó chỉ xuất hiện trong Chèo và Ca trù.

Trống Đế có hai mặt trống hình tròn, đường kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thường là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền). Đường viền da bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3cm, được đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhưng phải định âm tương ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chắp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống. Trống chầu có âm sắc đanh gọn, thể hiện tốt tình cảm trong sáng, vui tươi. Tuy nhiên tùy thuộc vào kĩ thuật đánh nó có thể diễn tả nhiều sắc thái tình cảm khác nhau (ngón vê, ngón bịt, đánh trên tang trống hay mặt trống…).





Mõ thuộc bộ gõ, không định âm, tham gia hòa tấu trong các dàn nhạc sân khấu và nhiều loại hình ca hát khác. Cấu tạo của mõ loại này thường làm bằng tre già, hình trǎng khuyết như mõ làng, ở một số dàn nhạc tuồng, chèo còn dùng mõ gỗ như mõ chùa, kích cơ vừa phải, đường kính từ 10 - 25 cm. Ngày nay mõ còn được dùng trong các tốp nhạc dân tộc mới và trong dàn nhạc dân tộc tồng hợp. Đặc biệt tham gia vào dàn Đại nhạc Huế hiện nay có loại mõ làm bằng sừng trâu. Mõ này làm từ sừng trâu cong, cắt bỏ phần đầu nhọn, lấy phần gốc dài chừng 10 - 15 cm. Âm thanh của mõ sừng trâu vang, khoẻ.Trong chèo Mõ Công dụng chính là cầm nhịp cho điệu hát và cho toàn ban phụ họa

1.2.6.5 Sênh

Sênh tiền là nhạc khí tự thân vang của Dân tộc Việt. Sênh là phách, tiền là đồng tiền chính, do đó còn gọi là Phách sâu tiền (Quán tiền phách)

Sênh tiền là nhạc khí tự thân vang gõ, quẹt, lắc do người Việt Nam sáng tạo.

Sênh tiền làm bằng ba thanh gỗ tốt, thường là gỗ trắc hay gỗ cẩm lai, chiều dài khoảng 25cm, chiều ngang khoảng 3cm và dày khoảng 0,6cm. Thanh gỗ thứ nhất và thanh gỗ thứ hai được nối liền bằng một sợi dây da ngắn, trên mặt gỗ trừ đoạn tay cầm, đều có khứa những đường rãnh ngang. Ở cuối có đóng một hoặc hai cái đinh có xâu một số đồng tiền. Thanh thứ ba ngắn hơn một ít, có khứa răng cưa bên cạnh, cạnh trái khứa từ đầu đến giữa, cạnh phải từ đầu đến cuối.

Âm thanh Sênh tiền vui, rộn ràng, khoẻ, phong phú.

Khi biểu diễn, nghệ nhân cầm hai thanh một và hai, chồng so le nhau, để các cọc tiền liền nhau, ngón cái ở bên trên. Với những động tác điêu luyện của các ngón tay, hai thanh một và hai được mở ra, kẹp vào tạo nên tiếng phách gỗ chắc nịch (giống như tiếng Song lang hoặc phách Huế) hòa lẫn tiếng rung của kim khí rộn ràng của đồng tiền (do đồng tiền nhảy lên). Có lúc tay trái đưa lên cao lắc nhanh liên tục, các đồng tiền va chạm vào nhau, reo lên một cách rộn rã, tạo âm thanh vòng lắc. Tay phải cầm ở giữa thanh thứ ba, sấp bàn tay xuống quẹt răng cưa ở cạnh trái, ngửa bàn tay lên quẹt răng cưa ở cạnh phải vào những cạnh của hai thanh kia tạo nên chuỗi âm thanh lắc cắc của nhạc khí quẹt. Có lúc luồn thanh này vào giữa hai thanh kia, dùng cổ tay lắc đều nhanh tạo âm thanh vê dòn. Sênh tiền là nhạc khí rất độc đáo của Việt Nam được sử dụng để đệm đàn hay ca, từng tiết tấu có thể kết hợp một lúc 3 nhạc khí gõ: phách, quẹt và vòng lắc, cuối một bản nhạc hay cuối một nửa đoạn thường sử dụng kỹ thuật lắc giữa hai thanh phách tiền.

Sênh Tiền được sử dụng trong Dàn nhạc Ðại nhạc, Dàn Bát âm, trong Hát Cửa Ðình, Dàn nhạc Sân khấu Chèo và đệm cho Hát Sắc Bùa



1.2.6.6 Thanh La

Thanh la là tên gọi một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. ở miền Nam gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang.

Được làm bằng đồng kim hợp thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25 cm, mặt hơi phồng, xung quoanh có thành cao 4 cm, ở cạnh thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây quai. Khi diễn tấu nhạc công cầm dây quai dơ lên, còn một tay cầm dùi gõ vào mặt thau tạo ra tiếng vang, trong trẻo.

Thanh la được sử dụng trong dàn đại nhạc, dàn nhạc lễ miền nam, trong ban nhạc chèo, chầu vǎn và dàn nhạc dân tộc tổng hợp



1.2.6.7 Đàn Nguyệt

Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa thì đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.

Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:

- Bầu vang : Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30cm, thành bầu 6cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm.

- Cần đàn (hay dọc đàn) : làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 10 phím đàn, trước đây chỉ có 8 phím. Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau.

- Đầu đàn : hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.

- Dây đàn : có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.

Nhìn chung dàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng.

Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau:

- Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn:

+ Phi lên : thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn.

+ Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả 2 dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.

Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy.

- Ngón vê : khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được.

- Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động. - Bịt : làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm ( hợp âm).

1.2.6.8 Đàn Nhị

Đàn nhị là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là đàn nhị (二). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều người dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giấy, H’Mông v.v.)

Tuy phổ biến tên gọi "đàn nhị", nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng tên khác nhau. Người Kinh gọi là "líu" (hay "nhị líu" để phân biệt với "nhị chính"), người Mường gọi là "Cò ke", người Nam Bộ gọi là "Đờn cò". Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm đàn nhị cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó

Loại đàn nhị thông dụng hiện nay có những bộ phận chính như sau:

Bát nhị (còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da.

Dọc nhị (còn gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da.

Trục dây : trục trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị.

Dây nhị : Trước đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ... nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng.

Cử nhị (hay khuyết nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu bạn kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. nếu bạn đẩy cử nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy nhiên để lên dây đàn người ta còn vặn trục dây nữa.

Cung vĩ: làm bằng cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn.

Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim). Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang người ta dùng đầu gối trái bịt một phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền

Đàn nhị là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm.

Bạn dùng tay trái giữ dọc nhị và bấm dây đàn bằng lòng ngón tay hoặc đầu ngón tay, tay phải cầm cung vĩ để kéo đẩy tạo ra âm thanh.

Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt, cung vĩ rời và cung vĩ rung

1.2.7 Sân khấu chèo

Trước đây Sân khấu chèo đơn giản tất cả việc đời diễn ra trên chiếc chiếu trải giữa sân đình.Sân khấu chống bốn mặt,khán giả quây quần bốn phía xem chèo. Có khi thì hậu trường phân biệt với sân khấu được đặt vào một cổng làng hay dưới mái tam quan và như vậy thì hậu trường là sau cánh cửa, và sân khấu chỉ có một mặt quay ra khán giả. Phông cảnh không hề có. Vài chiếc hòm đựng đồ trong khi di chuyển, thì lúc diễn được đem dùng để bố trí khung cảnh, khi là ngai vàng nhà vua khi là quả núi… có khi người ta dàn cảnh một cách rất kì lạ.ví dụ tượng phật trong vở Quan Âm Thị Kính thì lấy người đóng giả. Khi hết màn thì tượng cứ việc đứng dậy mà đi vào.Trong quá trình phát triển và cách tân ngày nay chèo được biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp.



      1. Múa trong Chèo

Ngoài âm nhạc, nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên chèo còn là múa. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: “Múa là hình tượng đẹp đẽ của nội tâm”. Điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông thường khác bởi lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động ở nông thôn. Những điệu múa trong chèo là những điệu múa dân tộc.Nguồn gốc của các điệu múa trong chèo là múa dân gian ngày xưa, múa rước kiệu, múa cô đào ở cửa đình và nhất là các điệu múa trực tiếp xuất phát từ sinh hoạt lao động. Các động tác cơ bản của các điệu múa trong chèo bắt nguồn từ các động tác lao động như cấy lúa, quay tơ, dệt vải, chèo đò, khâu áo…Khi sân khấu Chèo có nhân vật vua quan thì múa Chèo vay mượn một số yếu tố múa tuồng để thể hiện những nhân vật vua quan văn võ, những cuộc đao binh.

Tuy trong chèo các điệu múa đã được cách điệu hóa nhiều nhưng chúng vẫn mang phong thái dân tộc ở những bước đi, ở bàn tay múa, ở chiếc quạt trên tay diễn viên khi mở khi khép uyển chuyển linh hoạt.



      1. Phân loại Chèo.

Hiện nay loại hình nghệ thuật sân khấu chèo có khoảng trên 200 làn điệu.Các điệu ca khúc chính trong chèo là những làn điệu dân tộc như: Nói sử, hát cách, hát vãn, hát làn thảm… Và trong số làn điệu dần dần được đưa thêm vào chèo thì các làn dân ca được “chèo hóa”chiếm đại đa số. Các điệu ca khúc của chèo cũng như các làn dân ca “ chèo hóa” đều là những điệu nhạc vang lên từ đồng ruộng, xóm làng.Trong đó chia ra thành 4 loại chính:Chèo sân đình, chèo cải lương, chèo chái hê, chèo hiện đại.

1.2.9.1 Chèo sân đình:

Chèo sân đình chính là chèo dân gian truyền thống, chỉ biểu diễn trong các dịp hội làng, lễ tết ở sân đình. Sân khấu của chèo là sân đình rộng lớn, phường chèo biểu diễn ngay trước tiền đình. Xưa kia phường chèo do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn, xã. Mỗi phường chèo chỉ khoảng mươi mười lăm người kể cả nhạc công mà bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Người đóng trò gồm đào, kép, lão, mụ, hề. Có khi chỉ cần một đào, một kép, một hề xuất sắc là nổi đình nổi đám. Tính chất ước lệ của sân khấu chèo không chỉ thể hiện ở diễn xuất mà cả về trang trí. Chẳng có phông màn chỉ có một tấm vải nhuộm màu ngăn đôi buồng trò và sàn diễn. Hai chiếc chiếu trải ở giữa, khán giả ngồi vây ba mặt. buổi diễn thường mở đầu bằng điệu hát vỡ nước, một hồi trống dung lên, một người ra giáo đầu, buổi diễn kết thúc có hát vãn trò và trống dã đám. Chèo cổ còn có tên gọi khác là "trò nhời". Ngoài việc biểu diễn ở sân đình lúc hội hè, đình đám, các gánh chèo còn được mời hát ở các đám cưới, đám khao.

Mặc dù vậy, phường chèo vẫn là một gánh hát không chuyên. ở đó, người nghệ sĩ không lấy hát chèo làm nguồn sống chính. Diễn viên chèo vẫn là nhà nông và chỉ đi hát theo mùa hay khi có dịp. Nguồn sống chính của họ vẫn trông vào lao động sản xuất nông nghiệp ở thôn quê. Một số người khác là thợ mộc, hay người buôn bán cũng có thể tham gia phường chèo. Vùng đất tổ xưa, cũng có lúc đã hình thành phường chèo chuyên nghiệp như các phường Bồ Điền, Bàn Mạch, Tuân Chỉnh (ở Vĩnh Lạc), Cao Phong (ở Lập Thạch)... nhưng rồi các phường ấy cũng chẳng tồn tại được lâu bởi chỉ dựa vào lệ đánh bạc gây quỹ. Các phường chèo ở vùng đất tổ Vĩnh Phú đều thờ ông tổ sư chèo Đông Phương Sóc.

Mỗi phường có một tượng nhỏ Đông Phương Sóc bằng gổ để mộc, không tô vẽ, đặt trong một hộp gỗ nhỏ, do trùm phường cất giữ rất cẩn thận. Phường chèo gồm một số người cùng thôn hay cùng một làng xã. Phần nhiều có họ hàng với nhau. Vào mùa diễn, các phường lên đường rất đơn giản, nhẹ nhàng. Toàn bộ y phục, trang trí, đạo cụ để gọn vào một đôi hòm do một người gánh bởi hát chèo cổ không cần phông màn

Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.

Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng; Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.

Trong chèo cổ, cái cười chiếm thời gian dài, chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.

Chèo sân đình quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết.chèo từ loại Giáo phát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại hát nói(trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa(hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình(các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những trò nói mặt, trò trình nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà.

Như vậy, chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như tuồng, kể thêm cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả

Nhạc gõ, nhạc khí, và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.

Do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình, hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử ký, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đìnhnhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay.

Con đường gần 5 thế kỷ từ chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?)chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa,phát huy và phát triển.

Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống

1.2.9.2 Chèo cải lương

Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghị khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng

Trên phương diện hình thức nghệ thuật,chèo cải lương tuyên ngôn cải cách chèo theo tinh thần tả thực của sân khấu phương Tây. Có phông màn, bày biện cảnh trí để quy định không gian cụ thể.

Về trang phục thì nhân vật lên sân khấu được ăn mặc như ngoài đời, người thì đầu quấn khăn lượt lỏng lẻo, quần lá tọa, áo cánh màu trắng cháo lòng,chân lận giày mõm ngóe, người thì quần tây, áo vét màu vàng nhạt hoặc trắng nhờ màu nếp, đầu đội mũ phớt tàng,chân mang giày đơ cu lơ…

Về biểu diễn thì chèo cải lương bỏ những lớp trò ước lệ, bỏ hình thức múa hoa tay, múa cổ tay.

Về âm nhạc, trong chèo cải lương du nhập nhiều loại dân ca, bài bản, ca khúc Tây, Tàu không cần tùy thuộc vào bản chất, tính cách nhân vật. Các làn điệu dân ca Bắc Bộ như cò lả, trống quân, hát ví, sa mạc, bồng mạc… được đưa vào vở diễn không cần phải “chèo hóa”. Ngoài ra ông còn chú ý sử dụng các bản nhạc cổ như bình bán, hành vân, giao duyên

Còn về nội dung, chèo cải lương chú trọng vào việc răn đời, lấy lời ca,giọng hát và tiếng cười tao nhã mà duy trì phong hóa và cảnh tỉnh thế đạo nhân tâm”. Các vở diễn phê phán nghiêm khắc những kẻ cờ bạc, rượu chè, nghiện hút... đề cao nhân phẩm, đề cao tình nghĩa bạn bè, bảo vệ gia đình, yêu cầu sinh hoạt lành mạnh, làm ăn lương thiện (Mảnh gương nhân sự, Chữa bệnh ghen, Lượng cả bao dung, Kiến nghĩa đương vi...); lên án gay gắt lũ tham quan ô lại, cường hào cấu kết với nhau áp chế, bóp nặn người lương thiện một cách độc ác (Vụ án Hà thành), vẽ lên những ông thông, ông phán, hào phú rượu chè, cờ bạc, hút xách, chơi bời... trước sau sẽ chịu hậu quả xấu xa, thảm hại, rồi nhờ mẹ hiền, vợ thảo, con khôn mà nhận ra sai trái, trở lại với gia đình (Quá chơi nên nỗi, Say và tỉnh

Thế giới nhân vật trong chèo cải lương là những chàng công tử ăn chơi, những cô tiểu thư diêm dúa, gã trai đàng điếm say mê cờ bạc, hút xách cho đến thằng ở, con sen, cô đầu, gái ăn sương, thậm chí cả chú khách, tây đen, cha cố... Họ sống cầu an hưởng lạc với những khát vọng, thèm muốn rất tầm thường, thậm chí thấp hèn, dễ sa đà vào bẫy trụy lạc.

Do sự mở rộng đề tài mà bút pháp thể hiện của Nguyễn Đình Nghị có sự giống và khác biệt so với bút pháp chèo sân đình. Các vở diễn của ông luôn luôn chú ý đến cốt truyện, đặc biệt quan tâm đến yếu tố bi và hài trong một vở diễn. Ngôn ngữ kịch bản phần lớn viết theo các thể thơ, ít khi văn vần, chen vào các đoạn nói thường, biến ngẫu đối ý, đối vần... Ở điểm này tác giả đã tiếp thu và cố gắng phản ánh trong tác phẩm của mình những tinh hoa của nghệ thuật chèo cổ. Tuy nhiên, cũng do sự mở rộng đề tài mà cách xây dựng nhân vật cũng được mở rộng. Nhân vật trong các vở diễn của Nguyễn Đình Nghị không phải chỉ là sự biểu hiện của nhân tình mà đã được đặt vào thế thái. Bối cảnh xã hội tác động đến các nhân vật như là sự trình bày giải thích nguyên nhân của mỗi nhân tình.

1.2.9.3 Chèo Chải Hê

Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần:

Chuyện kể rằng, vào thời Cảnh Hưng (1730-1786), viên quan cai trị trong vùng ra lệnh cho mỗi làng phải làm một ngôi đình để thờ thần bản thổ. Dân làng Lũng Giang lên rừng đẵn gỗ về làm đình, trên đường về qua làng Tam Sơn, không may qua sông mắc cạn, được nhân dân làng Tam Sơn ra kéo giúp. Từ đó sinh ra tục kết chạ Lũng Giang-Tam Sơn. Sau khi khánh thành ngôi đình, hàng năm nhân dân hai làng qua lại thăm nhau khi hiếu hỉ từ đó sinh ra hát chèo Chải Hê

Chèo Chải hê tên đúng là chèo nhị thập tứ hiếu tức là chọn ra 24 người con hiếu thảo nên gọi tắt là chèo Chải hê hay Chái hê còn có những tên gọi khác như hát phường bội, quan họ hiếu và thường được hát ở sân đình, cửa chùa, trong các gia đình vào dịp giỗ chạp, đám tang hay ngày rằm tháng bảy – lễ xá tội vong nhân.

Nhạc cụ của chèo Chải hê rất đơn giản chỉ là trống cơm, thanh la, mõ. Khác với các chiếu chèo khác, ở chèo Chải hê thường chọn 6 người hát là nam thanh nữ tú, những người con hiếu thảo. Người nam vừa hát vừa thể hiện động tác múa với đạo cụ gồm 6 chiếc roi to bằng mười ngón tay cái, dài khoảng 1m được sử dụng như mái chèo trong lúc múa. Còn người nữ động lòng thương chàng trai chèo vất vả nên đứng đằng sau phụ họa bằng quạt.

Chèo Chải hê bao gồm hầu hết các giọng chèo, nhiều làn điệu và mang tính sông nước lại có lối hát xướng bằng nhiều hình thức khác nhau trong quá trình biểu diễn nên rất gần gũi với cư dân vùng đồng bằng. Chèo Chải hê gồm có 4 phần, mở đầu là hát giáo roi, nhị thập tứ hiếu, sau đó là múa hát chèo thuyền cạn và cuối cùng là múa hát kể thập ân rồi mới kết thúc bằng câu quan họ giã bạn.

Chèo Chải hê trong khi hát cũng có những tích truyện, những câu hát lồng vào đó nhưng chủ yếu vẫn đề cao lòng hiếu thảo.

Thế nhưng, chèo Chải hê đã không tồn tại được để vang danh khắp mọi miền như Quan họ. Những năm 1950-1960, thanh niên hai làng (Lũng Giang và Tam Sơn) chỉ chuyên tâm vào việc làm ăn chứ ít quan tâm đến việc học hát xướng như các thế hệ trước. Do đó, sau này, càng có ít người biết về chèo Chải hê cũng như còn nhớ giai điệu da diết của điệu hát này.. Hiện nay chèo chải hê đang được phục hồi và bảo tồn.

1.2.9.4 Chèo hiện đại

Chèo hiện đại loại hình nghệ thuật chèo từ sau Cách mạng tháng Tám (1945). Kế thừa và phát triển chèo cổ, nội dung phong phú, phản ánh xã hội Việt Nam hiện đại. Kịch mục chèo hiện đại gồm ba bộ phận: 1) Những vở chèo cổ được chỉnh lí hoặc cải biên, dàn dựng lại cho hợp với những yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng hiện đại; 2) Những vở chèo mới, diễn theo tích dân gian, lịch sử hoặc dã sử; 3) Những vở chèo mới phản ánh cuộc sống hiện đại

Về âm nhạc, một số điệu hát chèo đã được các nghệ sĩ mạnh dạn cải biên, phối khí theo phong cách và nhạc cụ hiện đại nhưng vẫn giữ giai điệu gốc vốn có.

Trên cơ sở bảo tồn những tinh hoa truyền thống, chèo hiện đại tìm hướng phát triển cho phù hợp với thời đại: phát triển trên nguyên tắc của phương pháp nghệ thuật truyền thống, tiếp thu những yếu tố của kịch "dram" (kịch nói) và ca kịch phương Tây. Chèo hiện đại đạt tới sự hưng thịnh chưa từng có trong lịch sử lâu đời của chèo vào những năm đầu thập niên 60 thế kỉ 20. Ở Miền Bắc, có 20 đoàn chèo chuyên nghiệp và hàng nghìn đoàn chèo nghiệp dư (riêng tỉnh Hải Dương cũ có tới 400 đội chèo). Hát chèo trở thành phổ biến trong đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân.


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id50526 114188
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Trường Đại Học Mỏ Địa Chất Khoa Dầu Khí Lời mở đầu
UploadDocument server07 id50526 114188 -> MỤc lục mở ĐẦU 10 Xuất xứ của dự án 10
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Thiết kế MÔn học nhà MÁY ĐIỆn lời nóI ĐẦU
UploadDocument server07 id50526 114188 -> ĐỀ TÀi ngân hàng trung ưƠng trưỜng trung cấp kt-cn đÔng nam
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Seminar staphylococcus aureus và những đIỀu cần biếT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Bài thảo luận Đánh giá chất lượng sản phẩm dầu thực vật Môn Phân Tích Thực Phẩm Nhóm 2 : Hoàng – Hùng Hiếu Hồng
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Luận văn tốt nghiệp gvhd: pgs. Ts nguyền Ngọc Huyền MỤc lục danh mục các chữ viết tắT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Aïi Hoïc Quoác Gia Tp
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Mục lục Tổng quan về thịt
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Gvhd: Nguyễn Minh Hùng Đề tài: Tìm Hiểu & Nghiên Cứu cpu

tải về 308.62 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương