TchyA, Bài Ca Thuốc Lào Bất Tiếu Nguyễn Quốc Bảo



tải về 69.23 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích69.23 Kb.
#20969
TchyA, Bài Ca Thuốc Lào

Bất Tiếu Nguyễn Quốc Bảo


Thú mây khói người đời ai rõ

(TchyA Đái Đức Tuấn)


Vào thập niên Bốn Mươi, Ông Cậu tôi, TchyA Đái Đức Tuấn1, viết Bài Ca Thuốc Lào, nguyên bản bằng Hán tự với tựa lúc đầu là Việt Yên Ca越煙歌, sau đổi tên là Thuốc Lào. Bài thơ khởi đầu với câu: Thời sĩ bất tri hồ dân yên 时仕不知乎民煙, shí shì bù zhi hu mín yan, diễn Nôm là Thú mây khói người đời ai rõ…Bài này TchyA viết lúc về ẩn dật ở quê2, lên núi tu tiên, dời bỏ cuộc đời trác táng ở Hà Nội với Cô đầu và Thuốc phiện, ông đổi thú mây khói Á phiện qua mây khói thuốc Lào.
TchyA dùng chữ Hán Việt Yên 越煙 yùe yan để gọi thuốc Lào, mà không viết Lao Yên3 láo yan 牢 煙 thuốc lào. Hán Việt thông dụng ta viết yên diệp 煙葉yān yè để chỉ lá thuốc. Thường thì, chữ Yên 菸bộ Thảo dùng để chỉ thuốc lá (cây) và chữ Yên 煙bộ Hỏa, nghĩa Khói, để chỉ thuốc hút. Các từ nguyên Hán Việt liên quan đến tự Nôm thuốc lá tóm tắt như sau :

  1. Ư, Yên 菸 (u83F8) yān bộ thảo 艸 (u8278) nghĩa Héo, úa. Một âm là Yên tức Cây thuốc lá. Chữ Hán thông dụng thường viết yên thảo 菸草 yān cǎo, Thuốc Lá tobacco; tobacco plant. Từ nguyên Hán 菸 yān (ư, yên) có các chữ Nôm là (1) úa, (2) ư, (3) yên, (4) thuốc, dược, 藥 yào (như yên dược), cho nên ta viết là thuốc lá.

  2. Yên 煙 (u7159) yān, giản thể: 烟 (u70DF) bộ hỏa 火 (u706B) có nghĩa 1) Khói. 2) Chất hơi nhiều gọi là yên. Như vân yên 雲 煙 mây mờ, yên vụ 煙 霧 mù mịt. 3) Thuốc hút. Như lao yên 牢 煙 thuốc lào, nha phiến yên 鴉 片 煙 thuốc phiện. Yên thảo 煙 草 (giản thể 烟草) yān cǎo thuốc lá cigarette, tobacco, tobacco plant.

  3. Diệp như diệp dược葉藥 yè yào (1) thuốc thơm, (2) thuốc lá thơm, (3) thuốc thơm, (4) thuốclá , Các từ hương yên 香煙 xiāngyān, Hương dược diệp 香藥葉' xiāng yào yè đều để chỉ thuốc thơm.

  4. Trừu yên 抽煙 (烟) chōu yān hút thuốc smoke (a cigarette/pipe). Nghiện thuốc: thượngẩn上癮 shàng yǐn.

Bài Ca Thuốc Lào của TchyA, không phải chỉ để ca tụng thuốc lào mà thôi, nhưng là dịp để cho Ông chê bai, chỉ trích Rượu và Á phiện (régler les comptes) mà Ông muốn từ bỏ, và kéo bè kéo lũ với Tiền Nhân làm hậu thuẫn và để biện chứng. Cái Ngông của TchyA, ngay từ đầu bài thơ Ông đã không dấu diếm, Ông đem các Thi Tiên (Thánh) Lý Bạch4, hiền nhân Tăng Tử Nhan Hồi5, Quân sư Khổng Minh Quản Trọng6, Tài tử Bá Nha Chung Kỳ7, cho đến Anh hùng Thủy Hoàng Tào Tháo, tất cả Thi Tiên, Tửu Tiên cùng Anh Hùng, đều là bạn tri âm của Phiêu Phiêu Yên giới!


Thế nhưng Sử viết Yên thảo (thuốc lá, thuốc lào) được nhập vào Trung Quốc chỉ có từ Minh Triều, đời Vạn Lịch Tam Niên萬曆三年wàn lì san nián (1575), yên thảo do từ quần đảo Lữ Tống 呂宋lu sòng Luzon (Phi Luật Tân), trước tiên, truyện nhập vào Đài Loan, Phúc Kiến, rồi phổ biến khắp nước Tàu. Còn Á phiện, thì trước khi đốt và hút (bắt chước từ người thổ dân châu Mỹ hút thuốc lá), người Âu Á thường nhai hoặc uống thuốc phiện, và chỉ bắt đầu từ cuối thể kỷ 16. Qua thế kỷ 17 - 18 thuốc phiện xuất hiện các nơi với tên gọi madak, một loại thuốc pha trộn á phiện và thuốc lá. Thế kỷ 19, madak bị cấm ở Tàu, hoạt động buôn lậu thuốc phiện tới Trung Quốc xuất phát từ Ấn Độ. Cho nên những Thi Tiên, Tửu Tiên cùng Anh Hùng mà TchyA đề cập tới, sinh sống hoặc trước Công Nguyên hay trễ lắm là khoảng cuối thế kỷ thư 7, làm sao có Cổ lai yên giới vô trích tiên và có cơ hội để Phiêu phiêu yên giới tiên kỷ hà? Chẳng qua Ông Cậu tôi nổi hứng nổi ngông nói chuyện ba hoa, tào lao mà thôi.
Điểm đẹp, hay và hùng tráng của bài thơ, trong nguyên bản Hán tự, là khi Tchya nói về Khói thuốc (Yên) – nhưng giọng thơ rất đam mê, nên không hiểu đây là khói Nha phiến mà TchyA vẫn còn luyến tiếc hay khói Thuốc lào. Ông nghiện rượu, á phiện và thuốc lá từ năm 22 tuổi,8 nên khi nói đến khói Yên, thì lời thơ TchyA lai láng, sắc sảo và hoa mỹ lắm:
Lục yên hữu đức như minh nguyệt

Bạch yên hữu quang như diễm tuyết

Hồng yên hữu sắc như đào hoa

Hắc yên mang mang thiên địa tuyệt

Khói biếc đức sáng ngời như nguyệt

Khói bạc trong như tuyết trắng phau

Khói hồng như đóa hoa đào

Khói đen mờ mịt trời cao đất dầy
Nhàn yên như liên tĩnh chú trì

Khứ yên dùng dũng như phong suy

Chiêu yên như lộ cửu thiên giang

Mộ yên như hỏa tận cao phi

Khói lơ lửng sen cười lặng lẽ

Khói chuyển vần mạnh mẽ gió bay

Khói mai sương xuống tự trời

Khói hôm lửa bốc tít vời ngàn không

Yên hạ đắc thời nỗ lực khỉ

Yên họa hữu thế vô sở tụy

Yên tụ sơn đầu điểu bất minh

Yên tán phòng trung khách tĩnh túy

Khói nước giậy sóng đùng đùng chuyển

Khói lửa ran không bến không bờ

Đầu non khói phủ chim thưa

Trong phòng khỏi tỏa khách lờ mờ say
Vô tư mà nói, thì có lẽ chỉ Ả Phù Dung mới đem đến cho TchyA một nguồn thi hứng dồi dào bất tận như trên. Lời và nhạc của thơ đẹp quá, áp dụng cho cái say của thuốc Lào, chắc khó tưởng tượng được. Sau khi ca tụng Khói một cách nồng nhiệt, TchyA bắt đầu thanh toán với cái nguy hại xấu xa của rượu, trà và á phiện.
Việt Yên bất như mỹ tửu tùng

Bất như danh trà sử vương công

Bất như nha phiến đa tiều tụy

Việt yên bình dân hương vị nùng



Thuốc lào khác rượu cay men bốc

Khác trà non quen tục lâu đài

Khác nha phiến xấu xa người

Thuốc lào bình dị thơm mùi đượm hương
Say rượu thì Nhiệt độ hào hùng cố bất chính (hơi men sặc sụa hỗn dâm tơi bời), nghiện á phiện thì Trụy ư địa ngục nghi đăng tiên (Nằm ngục tù vẫn tưởng lên tiên).
Và để kết luận, vì chí suy nhược và ngu xuẩn, nhầm lẫn chân giả, nên ta mới lạc vào chốn ma đưa lối quý đưa đường Á phiện ; trong khi thuốc lào là chính đạo, là trung dung, tốt cho hô hấp và khẩu minh tinh thần. Rồi Tchya tiếp tục cái Ngông của mình, đưa ra giả thuyết :
Việt yên hảo nguyện đắc minh thời

Đại đồng thiên hạ can qua khứ



Thuốc lào ví được gặp thời

Đao binh đoạn tuyệt loài người anh em
Nhưng than ôi, cái nợ của TchyA nặng lắm, thủy chung không thoát được số mệnh của kẻ tài hoa. Bỏ thuốc phiện được 10 năm, đến năm 1953, Ông lại khăn gói trở về với Ả Phù Dung, và cái Ma phiến Quỷ bắt Ông trở lại Chính đạo bất tầm yên đạo quy, cho đến khi mãn phần.
Thuốc Lào

(Nguyên văn Hán tự và Diễn Nôm: TchyA)

Thời sĩ bất tri hồ dân yên

Cổ lai yên giới vô trích tiên

Lưu linh Lý Bạch tửu thi thánh

Nhan Hồi Tăng Tử nhân nghĩa hiền



Thú mây khói người đời ai rõ

Khói không tiên từ cổ vẫn truyền

Nhan Tăng nhân nghĩa nho hiền

Lưu thánh chén ngọc Lý tiên vân vàng

Khổng Minh Quản Trọng đạt nhân chí

Thủy Hoàng Tào Tháo anh hùng khí

Lý Tích Phật Nữ cao nhãn duyên

Bá Nha Chung Kỳ tri âm nhĩ

Hùng Tào Tháo Thủy Hoàng nhất thống

Đạt nhân thì Quản Trọng Khổng Minh

Lý Tích Phật Nữ mắt xanh

Hiểu đàn họ Bá là anh Tử Kỳ

Thánh hiền đạt nhân anh hùng đa

Thanh nhãn tri âm mãn thế hoa

Thi tiên Tửu tiên an sở đắc

Phiêu phiêu yên giới tiên kỷ hà

Hùng đạt thánh hiền chi cũng có

Nhiều tri âm vô số mắt xanh

Tiên thơ tiên rượu đã đành

Trong làn khói tỏa tiên linh mấy người

Lục yên hữu đức như minh nguyệt

Bạch yên hữu quang như diễm tuyết

Hồng yên hữu sắc như đào hoa

Hắc yên mang mang thiên địa tuyệt

Khói biếc đức sáng ngời như nguyệt

Khói bạc trong như tuyết trắng phau

Khói hồng như đóa hoa đào

Khói đen mờ mịt trời cao đất dầy
Nhàn yên như liên tĩnh chú trì

Khứ yên dùng dũng như phong suy

Chiêu yên như lộ cửu thiên giang

Mộ yên như hỏa tận cao phi



Khói lơ lửng sen cười lặng lẽ

Khói chuyển vần mạnh mẽ gió bay

Khói mai sương xuống tự trời

Khói hôm lửa bốc tít vời ngàn không

Yên hạ đắc thời nỗ lực khỉ

Yên họa hữu thế vô sở tụy

Yên tụ sơn đầu điểu bất minh

Yên tán phòng trung khách tĩnh túy

Khói nước giậy sóng đùng đùng chuyển

Khói lửa ran không bến không bờ

Đầu non khói phủ chim thưa

Trong phòng khỏi tỏa khách lờ mờ say

Việt Yên bất như mỹ tửu tùng

Bất như danh trà sử vương công

Bất như nha phiến đa tiều tụy

Việt yên bình dân hương vị nùng

Thuốc lào khác rượu cay men bốc

Khác trà non quen tục lâu đài

Khác nha phiến xấu xa người

Thuốc lào bình dị thơm mùi đượm hương

Túy bất cuồng túy tỉnh bất tỉnh

Nhàn nhã phong lưu tâm khả định

Bất như ẩm thời tửu sung quan

Nhiệt độ hào hùng cố bất chính

Say chẳng say tỉnh thường chẳng tỉnh

Thú phong lưu nhàn định được tâm

Không như uống rượu ầm ầm

Hơi men sặc sụa hỗn dâm tơi bời

Bất như ám khí nha phiến yên

Trụy ư địa ngục nghi đăng tiên

Trác cân ma cốt ư cô mộng

Tòng thử chung thân cánh đảo điên

Không như mờ mịt say vất vưởng

Nằm ngục tù vẫn tưởng lên tiên

Mài gân rũa cốt liên miên

Bén hơi nghiện ngập đảo điên một đời

Tự thân tác nghiệp u tù hoạt

Li bất đắc li thoát bất thoát

Cô miên bảo hận trường bi ta

Chí hề khí hề hà đê mạt

Thân tự đọa vào nơi u tối

Khôn xa lìa khó nỗi rứt đi

Nằm trơ ôm hận sầu bi

Buồn sao chí khí đã suy cả rồi

Chí khí đê mạt do ư si

Thời nhân ngộ nhận chân giả chi

Việt yên bất như nha phiến quỷ

Chính đạo bất tầm yên đạo quy

Chí suy nhược vì người ngu xuẩn

Tính vốn thường nhầm lẫn giả chân

Thuốc phiện quỷ thuốc lào thần

Đường Phật chẳng rõi lại rần đường ma

Việt yên xuất ư chính đạo khí

Bất trụy linh hồn bất túy lý

Ôn hòa tao nhã đáo trung dung

Thử đại tiên cung danh thảo thị

Thuốc lào mới rõ là chính khí

Mê hồn không túy lý cũng không

Ôn hòa đạt tới trung dung

Cỏ thơm trong chốn tiên cung đó mà

Cố chư quân tử đa ân cần

Nhàn thời hô hấp như phi vân

Trúc can nhật dụng vi yên cụ

Tảo khởi nhất khẩu minh tinh thần

Bực quân tử thiết tha vì thế

Kéo một hơi dường thể tuôn mây

Dìu tre uốn trúc đêm ngày

Tan sương một khói rạng ngay tâm thần

Vương chí bình dân đồng nhất lữ

Cộng xử Việt yên giai như thử

Việt yên hảo nguyện đắc minh thời



Đại đồng thiên hạ can qua khứ

Trên chí dưới vua dân một lứa

Điếu tỉnh say cùng thú cùng vui

Thuốc lào ví được gặp thời

Đao binh đoạn tuyệt loài người anh em
Gavilan Springs Tiết Đại hàn Kỷ Sửu 2009



1 Đái Đức Tuấn, bút danh TchyA, hiệu Mai Nguyệt, sinh năm 1908, từ trần ngày 8 thánh 8 năm 1968 (ngày Rằm tháng bảy năm Mậu thân), quê quán gốc làng Ngọc Diêm, còn gọi là làng Si thuộc Ngọc Giáp xưa, nay thuộc xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Bài Thuốc Lào chưa bao giờ đăng báo.

2 Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, quân Nhật Phù Tang sang chiếm Đông Dương, TchyA chán ghét thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, ông xin nghỉ việc ở nha Học chính Bắc Kỳ, cùng vợ và đứa con nuôi độc nhất Đái Thị Quế, trở về quê Thanh Hoá, đến phủ Quảng Xương, ở ẩn trọng một động khoét ra từ một cái hang của ngọn núi côi, ở làng Bồ cũng thuộc về Ngọc Giáp (nay thuộc xã Quảng Thạch).

3 Lao yên 牢 煙 thuốc lào, chữ Lao đây không có nghĩa là nước Lào (thuốc từ Lào đem sang). Nước Lào tức Liêu Quốc viết寮国. Thiển nghĩ Hán Việt Việt Yên sát nghĩa hơn là Lao Yên.

4 Lý Bạch李白lĭ bái (701-762), tự Thái Bạch 太白tài bái, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青莲居士 qing lián ju shì, thi sĩ nổi danh thời Thịnh Đường, được xưng tụng là Thi Tiên诗仙 shi xian, Thi Hiệp诗侠shi xiá. Lý Thái Bạch Tập李太白集 lĭ tài bái jí, truyền lại cho hậu thế. Đỗ Phủ (712-770), ít tuổi hơn Lý Bạch, đương thời cũng được xưng là Thi Thánh诗圣shi shèng.

5 Tăng Tử 曾子, tên thật là Tăng Sâm 曾参 (505 TCN - 435 TCN), tự Tử Dư 子輿, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp平邑, tỉnh Sơn Đông山東), là học trò xuất sắc của Khổng Tử; Ông làm ra sách Đại học大學gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp (hay Tử Tư) làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư (cùng với Luận Ngữ, Đại Học, Mạnh Tử).

6 Quản Trọng (chữ Hán: 管仲; 725 TCN - 645 TCN) là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban đầu của ông là Di Ngô (夷吾). Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề Hoàn Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.

7 Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ là tiều phu. Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Ðô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Ðại Phu. Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).


8 Danh nhân tài tử thì nhiều người nghiện, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nghiện rượu, Khái Hưng nghiện thuốc Lào, Lê Văn Trương nghiện thuốc phiện,… nhưng TchyA Đái Đức Tuấn thì nghiện đủ thứ, nên phải trả giá cao, 60 tuổi thọ, đã từ trần vì bệnh Viêm khí quản kinh niên và Suy tâm thất.

Chim Việt Cành Nam - http://chimviet.free.fr | Page


tải về 69.23 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương