ĐẤt mặn và biện pháp cải tạo i/ Tổng quan về đất mặn



tải về 376.52 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích376.52 Kb.
#18867
  1   2   3
ĐẤT MẶN VÀ BIỆN PHÁP CẢI TẠO
I/ Tổng quan về đất mặn.

Một góc vùng ngập mặn vùng Bạc Liêu

Ngoài diện tích tưới, độ mặn đặt ra một vấn đề quan trọng trong chính sách quản lý của nhiều vùng, nhiều quốc gia trên thế giới. Vùng đất khô mặn là một mối đe dọa đến tài nguyên đất và nước ở nhiều vùng trên thế giới mặc dù chỉ trong những năm gần đây có mức độ nghiêm trọng của vấn đề trở nên phổ biến rộng rãi. Vùng đất khô mặn là một vấn đề quản lý cấp tính ở miền Tây nước Úc và trong khu vực Great Plains của Bắc Mỹ. Tại Canada nó xảy ra nhiều ở các tỉnh đồng cỏ của Manitoba, Saskatchewan và Alberta và tại Hoa Kỳ trong các tiểu bang Montana, North và South Dakota. Vùng đất khô hạn độ mặn cũng cho biết để xảy ra ở Nam Phi, Iran, Afghanistan, Thái Lan và Ấn Độ và nó có thể tồn tại ở các nước khác. Các vùng đất mặn xảy ra trong các khu vực khô hạn đã được biết đến bởi một số tên địa phương, nhưng phổ biến nhất là thấm nước muối ở các vùng ven biển, cửa sông ( trong đó có Việt Nam) . Đất mặn gây ra các vấn đề nghiêm trọng trong công tác quản lý và sử dụng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng canh tác của người dân sống trên đó. Các vấn đề liên quan đến nguồn gốc và quản lý của đất mặn vùng đất khô hạn đã được thảo luận tại các cuộc họp một số trong quá khứ gần đây (1976 Chưa xác định, năm 1978; Holmes và Talsma 1981).


Đất bị ảnh hưởng bởi muối xảy ra trong tất cả các châu lục và ở hầu hết các điều kiện khí hậu, tuy nhiên, đất mặn xảy ra tương đối rộng rãi hơn ở vùng khô hạn và bán khô hạn so với các khu vực ẩm ướt.. Bản chất và đặc tính của các loại đất này cũng rất đa dạng , do đó mà đồi hỏi cách tiếp cận, nghiên cứu cụ thể nếu muốn quản lý, sử dụng để khai thác các nguồn lợi từ các vùng đất .
Ở nước ta, đất mặn có nguồn gốc chủ yếu là do bị nước biển xâm lấn, đất bị nhiễm mặn, đất mặn chiếm phần phần diện tích tương đối lớn – khoảng 2 triệu ha, khoảng 6% diện tích đất tự nhiên, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng thấp, ven biển như các vùng đồng bằng ven biển ở Hải Phòng, Nam Định, Huế,…và đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long- các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, ảnh hưởng xấu đến các việc canh tác, năng suất cây trồng của nhân dân…
Từ việc nghiên cứu để hiểu đất mặn, ta có thể xay dựng các giải pháp dài hạn để cải tạo các vùng đất này. Do vậy, việc tìm hiểu phương thức, nguồn gốc của đất bị ảnh hưởng bởi muối và để phân loại, lưu giữ trong xem các đặc tính hóa lý, quy trình dẫn đến sự hình thành đất mặn và các phương pháp tiếp cận, các giải pháp có khả năng cải tạo đất mặn là cần thiết và góp phần quan trọng vào thành công trong công tác quản lý, sử dụng đất mặn.
Muốn hiểu về đất mặn, trước hết ta cần phải hiểu đất mặn là gì. Từ đó mới có thể tìm ra nguyên nhân xảy ra hiện tượng đó, để xa hơn, ta có thể tìm được biện pháp cải tạo các loại đất mặn để phục vụ cho mục đích riêng của chúng ta.

Vậy đất mặn là gì, có một định nghĩa chung gì về đất mặn không? Trả lời cho câu hỏi này hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất, do vậy ta chỉ có thể hiểu ý của các nhà nghiên cứu muốn đề cập thôi.


Định nghĩa đất mặn.
Đặc điểm phân biệt của đất mặn từ quan điểm nông nghiệp, là đất đó có tồn tại các loại muối hòa tan ở một nồng độ cao hơn bình thường, gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng.

Theo định nghĩa tương đối rộng rãi hiên nay trên thế giới, đất mặn là những loại đất có độ dẫn điện lớn hơn 4 m / dS ở 25 ° C (Richards 1954).. Giá trị này thường được sử dụng trên toàn thế giới mặc dù các ủy ban thuật ngữ của Hiệp hội Khoa học đất của Mỹ đã giảm ranh giới giữa nước mặn và đất mặn không đến 2 m / dS trong bão hòa giải nén. Các loại muối hòa tan muối phổ biến nhất hiện nay trong đất mặn là clorua và sunphát canxi, natri và magiê. Nitrat có thể có mặt với số lượng hiếm. Natri và Clorua là các ion chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong các loại đât mặn. Nhiều đất mặn có chứa lượng đáng của thạch cao (4 CaSO, 2H 2 O) ... Cacbonat hòa tan luôn vắng mặt.. Giá trị pH của đất bão hòa dán luôn luôn nhỏ hơn 8.2 (Abrol et al 1980.,).


Ngoài ra, còn có một định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn, nhất là trong các trường đại học ở nước ta:

_ Đất mặn là đất chứa nhiều muối hòa tan ( 1 – 1,5% hoặc hơn ). Những loại muối tan thường gặp trong đất là NaCl, Na2SO­4, CaCl2, CaSO4, MgCl2, NaHCO3…Những loại muối này có nguồn gốc khác nhau (nguồn gốc lục địa, nguồn gốc biển, nguồn gốc sinh vật…), nhưng nguồn gốc nguyên thủy của chúng là từ các thành phần khoáng của đá núi lửa. Trong quá trình phong hóa đá, những muối này bị hòa tan di chuyển tập trung ở những dạng đại hình trũng không thoát nước.


II/ Sự hình thành đất mặn.
Nguyên nhân làm đất bị mặn hóa cũng có rất nhiều như địa bàn mà nó phân bố vậy. Nhưng nếu tổng hợp các nguyên nhân lớn làm cho đất mặn thì ta có thể dễ dàng thấy rằng có hai nguyên nhân lớn, đó là :

_ Nguyên nhân khách quan( do các quá trình, tiến trình xảy ra trong tự nhiên, không có sự tác động của con người).

_ Nguyên nhân chủ quan ( Do quá trình sống, canh tác cuả con người gây tác động đến các đặc điểm tự nhiên của đất).

1.Nguyên nhân khách quan.

Đất bị nhiễm mặn do sự tích tụ quá mức bình thường của các loại muối hòa tan trong đất. Các muối này chủ yếu là muối của các ion Cl­-, SO42-, Ca2+, Mg2+, K+, Na+…Do vậy mà các vùng đất mặn thường là các vùng đất ích bị tác động rửa trôi của mưa…như các vùng ít mưa, các vùng khô hạn và bán khô hạn, đất ngày một tích tụ nhiều muối và đất bị mặn hóa. Ở nước ta, đất mặn lại có nguyên nhân là đất nhiễm mặn từ biển, bị nước biển xâm thực…nước biển theo các đường sông, nước ngầm vào sâu trong nội địa…

Vậy muối trong đất có nguồn gốc từ đâu?

Như ta cũng đã biết, đất có nguồn gốc từ sự phong hóa đá. Các loại đá, bản thân chúng điều có chứa một lượng muối khoáng nhất định. Đây chính là nguồn gốc của muối trong đất. Khi đá trong tự nhiên bị các tác động của các quá trình phong hóa vật lí, phong hóa hóa học gồm có sự thủy phân, sự hydro hóa, sự hòa tan, sự oxy hóa và sự carbonate hóa, các yếu tố cấu tạo nên đá được thả ra dần và làm hòa tan các muối khoáng có trong đá ban đầu. Các muối này nếu không bị rửa trôi đi nơi khác sẽ tích tụ ngay tại vùng đất đó, ngày tháng trôi qua, lượng muối tích tụ này ngày một nhiều…và đến một lúc nào đó, chúng thật sự làm cho đất có tính chất của đất mặn- đất đã bị mặn hóa…


Từ nguyên nhân này, ta cũng có thể suy ra rằng, các vùng đất trũng, thấp, thường tích tụ nhiều vật chất từ các nơi khác cũng là những vùng đất có nguy cơ bị mặn hóa cao. Các vùng đất này có thể là các trũng của đồng bằng, các vùng cửa sông…( tuy các vùng này không phải là các vùng khô, bán khô hạn, ít mưa…). Ở các vùng này, các ion muối khoáng có trong đất do quá trình phong hóa đá ở các vùng có địa thế cao sẽ bị các tác động bên ngoài như mưa, lũ, gió rửa trôi xuống các vùng trũng thấp, do là các vùng trũng thấp nên các muối này bị giữ lại và lắng xuống, tích tụ ngày một nhiều. làm cho đất trở thành đất mặn.

Sự tích tụ muối ở các vùng trũng, thấp.
Dù cho sự phong hóa các khoáng cơ bản là nguồn gián tiếp của hầu hết các muối có thể hòa tan, hẳn có một số ít trường hợp trong đó lượng muối đủ đã tích tụ tại nơi từ đó chỉ nguồn nói trên tạo ra một loại đất mặn. Đất mặn thường xảy ra trong các khu vực nhận muối từ các điạ điểm khác, và nước là một thể mang cơ bản. Đại dương có thể là nguồn muối vì trong đất vật liệu mẹ gồm có trầm tích biển lắng tụ trong thời kỳ điạ chất sớm hơn và từ đó đã được nâng lên. Loại đá phiến tại Colorado, Wyoming và Utah là các thí dụ điển hình của trầm tích biển mặn. Đại dương còn là nguồn nguồn muối trên đất thấp dọc theo duyên hải. Thỉnh thoảng muối được di chuyển vào trong đất liền thông qua sự chuyển tải bằng gió và được gọi là muối theo chu kỳ (Teakle, 1937). Tuy nhiên, phổ biến hơn, nguồn muối trực tiếp là nước mặt và nước ngầm. Tất cả các loại nước trên chứa muối đã hòa tan, liều lượng tùy thuộc vào hàm lượng muối trong đất và vật liệu địa chất mà nước đã tiếp cận. Nước có tác dụng như là nguồn muối khi được sử dụng để tưới. Nước còn có thể thêm muối vào đất trong điều kiện tự nhiên, hay khi nước tràn ngập vùng đất thấp hay khi nước ngầm dâng cao gần mặt đất.

Ngoài ra dựa vào tính chất của đất mặn là đất có chứa một lượng lớn các loại muối hòa tan. Vậy các vùng ven biển ở cửa sông cũng là các vùng ta thường bắt gặp đất mặn, thực tế là vậy. Đất ở đây thường bị mặn hóa do đất bị nhiễm mặn từ biển vào. Các loại muối từ biển sẽ theo các mao nước trong đất xâm nhập cạn vào đất liền. Đặc biệt trong các mùa khô, khi mực nước sông thấp, áp lực nước ngọt không đủ sức ngăn nước biển vào…nước biển sẽ theo đường sông xâm nhập sâu vào trong nội địa…gây thiệt hại nặng cho các ngành nông nghiệp. Và như vậy, đất sản xuất bình thường đã trở thành đất mặn.


Một vùng mà ta cũng có thể tìm thất đất mặn nữa là các vùng biển cũ trong nội địa. Nói đến đây ta cũng có thể hiểu tại sao đất ở đây mặn. Do trong quá khứ, khu vực đó là vùng biển, do một biến cố tự nhiên nào đó, vùng biển này biến mất… nhưng đó chỉ là sự biến mất của chất lỏng, các muối khoáng vô cơ không thể bốc hơi theo hơi nước nên tích tụ lại trên mặn đất, sau này bị trầm tích vùi xuống sâu dưới lòng đất. Đất ở khu vực này trở thành đất mặn. Do vậy, đất ở các khu vực có mỏ muối thường là đất mặn. Ở nước ta thì không có đất mặn được hình thành theo kiêu này, nhưng ở Anh thì có rất nhiều.
2. Nguyên nhân chủ quan.
Ngoài việc tích tụ trong đất do các tiến trình tự nhiên, muối cũng có thể được tích tụ do tưới tiêu không hợp lí của con người trong quá trình canh tác. Vì nước tưới thường là nước lấy trực tiếp từ các sông…Nước này thường chứa một lượng muối khoáng lớn( do nhận được từ các vùng đất khác nhau mà nó chảy qua). Khi tưới, vì một lí do nào đó, hoặc do tưới quá nhiều, lượng muối này không đươc cây trồng sử dụng hết, lại không bị rửa trôi đi nơi khác, nó sẽ tích lại…và ngày càng làm cho đất bị nhiễm mặn.
Do việc con người sử dụng nước đầu nguồn quá mức làm cho mực nước ở các sông thấp xuống, điều này cũng là nguyên nhân làm cho đất bị nhiễm mặn do nước biển xâm lấn sâu vào trong nội địa.


SỰ MẶN HÓA ĐẤT ĐAI

Quá trình tích lũy các loại muối trung tính hòa tan được gọi là quá trình mặn hóa.

Đất mặn xảy ra trong phần lớn càc vùng có thời tiết khô và nửa khô. Trong điều kiện ẩm, muối có thể hòa tan hiện dikện ngay từ đầu. Trong vật liệu thổ nhưỡng và vật liệu được tạo ra bởi sự phong hóa khoáng chất thường được mang xuống nước ngầm và cuối cùng được chuyển tải qua các sông suối đến đại dương. Vì vậy, đất mặn về thực hành không hiện hữu tại vùng ẩm ướt trừ khi đất đã là đối tượng của nước biển trong tam giác châu sông và các đất thấp khác gần biển. Trong các vùng khô, sự trực di và sự chuyển tải các muối có thể hòa tan ra biển không trọn vẹn như tại vùng ẩm ướt. Sự trực di thường là cục bộ về bản chất và các muối có thể hòa tan có thể không bị chuyển tải đi xa. Điều nói trên xảy ra không chỉ vì thiếu vũ lượng để trực di và chuyển tải muối mà còn vì tỷ lệ bốc hơi cao đặc trưng của thời tiết khô, có xu thế tập trung các muối trong đất và trong nước mặt.

Sự tiêu nước bị giới hạn là một yếu tố thường góp phần vào sự mặn hóa đất và có thể liên quan đến sự hiện diện của mực nước ngầm cao hay độ thẩm thấu trong đất thấp. Mực nước ngầm cao thường có liên quan đến điạ hình, Do vũ lượng thấp trong vùng khô hạn, đường tiêu nước mặt có thể được phát triển kém. Như là một hệ quả, có các bể tiêu nước không có đầu ra cho các dòng chảy thường xuyên. Việc tiêu nước có muối khỏi đất cao trong lưu vực có thể nâng cao mực nước ngầm lên mặt đất, có thể tạo ra lụt lôi tạm, hay có thể tạo thành hồ có muối thường xuyên. Trong điều kiện như trên,, di chuyển lên trên nước ngầm mặn hay bốc hơi nước mặt tạo ra đất mặn. Do đó, chừng mực vùng đất mặn đã hình thành có thể thay đổi từ một vài mẫu anh đến hàng trăm dặm vuông. Nhiều loại đất mặn tại Anh quốc đã được hình thành theo phương pháp nói trên. Các vùng tương tự xảy ra trên khắp các bang miền Tây. Chúng thường được xem như là các hồ khô.

Tính thẩm thấu thấp của đất làm cho việc tiêu nước kém do việc ngăn cản sự trực di của nước. Tinh thẩm thấu kém có thể là kết quả của một cấu trúc đất bất thuận hay kết cấu hay sự hiện diện của các lớp đất cứng. Lớp đất cứng có thể gồm có một tầng đất cái, một lớp calic hay một nền cứng cát. De Sigmond (1924) đã xem sự hiện diện của một lớp đất không thấm nước càn thiết cho sự tạo thành đất mặn đã được tìm thấy tại Hungari.

Bài toán về độ mặn quan trọng kinh tế chính đặt ra khi đất không mặn trước trở nên mặn do việc tưới nước. Loại đất trên thường nằm ở trong các thung lũng gần sông suối, và, vì trường hợp có thể được tưới nước vùng đất cao hơn thường được chọn để trồng trọt. Trong khi các loại đất trên có thể được tiêu nước tốt và không mặn trong điều kiện tự nhiên, việc tiêu nước có thể không thích hợp cho việc tưới nước. Khi muốn tưới nước cho đất mới nông dân thường thất bại trong việc nhìn nhận yêu cầu để xác lập tiêu nước nhân tạo khi muốn sử dụng nước bổ sung hay các muới có thể hòa tan.. Như là một kết quả, mực nước ngầm có thể dâng cao từ một chiều sâu rất lớn đến một số ít bộ anh trên mặt đất trong một số năm. Trong thời kỳ phát triển đầu của các dự án tưới tiêu, nước thường đầy đủ và có một xu thế sử dụng nước quá mức Điều nói trên d8ẩy nhanh sự nâng cao mực nước ngầm. Nước được sử dụng để tưới có thể chứa từ 0, 1 đến nhiều bằng 5 tấn muốicho mỗi mẫu-bộ anh nước, và việc sử dụng nước hàng năm có thể lên đến 5 bộ anh hay hơn. Do đó, lượng rất lớn muối có thể hòa tan có thể được bổ sung vào đất có tưới trong thời gian tương đối ngắn. Khi mức nước ngầm cao lên trong khoảng 5-6 bộ anh trên mặt đất, nướcngầm di chuyển lên phiá trên vào vùng hoạt động của rễ và lên trên mặt đất. Trong điều kiện như trên, nước ngầm, cũng như nước tưới, góp phần vào việc mặn hóa đất.



  • Tóm lại:

Sự hình thành đất mặn là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: đá mẹ, đại hình trũng không thoát nước, mực nước mặn nông, khí hậu khô hạn, sinh vật ưa muối… Trong các yếu tố trên, yếu tố nước mặn là nguyên nhân trực tiếp là cho đất bị mặn.

Do có nguồn gốc, đặc điểm tích lũy muối khác nhau nên có rất nhiều nguyên nhân làm cho đất bị mặn hóa:

_ Quá trình mặn hóa do ảnh hưởng của nước biển.

Quá trình này xảy ra ở miền nhiệt đới do ảnh hưởng của nước biển. Nước biển xâm nhập vào nội đồng theo sông ngòi khi thủy triều len cao, qau các trận mưa bão, vỡ đê biển hoặc vào mùa khô khi nước ngọt của các sông có lưu lượng tháp chảy ra biển, nước ngọt không đủ lực để đẩy nước biển khi thủy triều mạnh. Nước mặn cũng có thể theo các mao mạch, đường nứt cong đất, đi quan các con đê biển thấm sâu vào trogn nội đồng. Đây cũng là quá trình mặn hóa đất đai chủ yếu đang diễn ra ở nước ta. Thành phần muối ta trong đất mặn nước ta giống thành phần muối tan của nước biển.

_ Quá trình mặn hóa lục địa,

Ở những vùng khô hạn và bán khô hạn, các loại muối khó tan vẫn còn lại trong đất, chỉ những muối dễ tan như: NaCl, MgCl2, NaCl2…mới bị hòa tan, nhưng cũng không được vận chuyển đi xa, tích tụ ở những địa hình trũng không thoát nước dưới dạng nước ngầm. Do điều kiện khô hanh và mực nước ngầm cạn, muối được di chuyển và tập trung lên lớp mặt do quá trình bốc hơi và thoát hơi nước.

Các nguyên nhân gây nên mặn hóa lục địa là:

+Dâng nước mao quản từ nước ngầm ( nguyên nhân chính).

+ Do gió chuyển muối cùng bụi từ biển và các hồ nước mặn.

+ Do giáng thủy rửa trôi muối từ nơi có địa hình cao xuống thấp.

+ Do sự khoán hóa xác thực vật ưu mặn, trong chúng có chứa nhiều muối.

+ Do sự tưới tiêu không hợp lí của con người.

_ Quá trình mặn hóa thứ sinh, ở những vùng khô hạn và bán khô hạn lượng mưa rất thấp ( 200 – 500 mm/năm ), nền nông nghiệp có tưới và cần tưới là phổ biến. Do việc quản lí đất và dùng nguồn nước bị nhiễm mặn, nền tầng đất mặt bị nhiễm mặn, như vậy do tác động nhân sinh đã làm mặn hóa tầng đât mặt.

III/ Đặc điểm-phân loại-phân bố đất mặn.

Đất khô cằn, kết tinh muối trắng trên bề mặt là đặc điểm nhận dạng đất mặn

1/ Đặc điểm.
Một số khái niệm cần nắm:
a/ Độ dẫn điện.
Nước nguyên chất có độ dẫn điện rất kém, nhưng khi cho muối vào nước, độ dẫn điện của nước sẽ tăng. Vì vậy độ dẫn điện của nước có tương quan với nồng độ muối. Độ dẫn điện được kí hiệu là EC, xác định bằng EC meter, đơn vị đo là decisiemens/mét ( dS/m)

Hiện nay, để xác định EC của đất, người ta có thể dùng điện cực cắm thẳng vaofl đất và đọc giá trị EC.


b/ Tình trạng Na trong đất.

Có hai khái niệm dùng để diễn tả tình trạng Natri trong đất.


­_ Phần trăm Natri trao đổi (ESP): Xác định mức độ bão hòa Na trên phức hệ trao đổi.

Khi ESP = 15, pH có thể đạt đến 8.5


ESP = ( Na trao đổi (cmolc/kg)/khả năng trao đổi cation ( cmolc/kg)x100)


Tỉ lệ hấp phụ Natri ( SAR): Là tính chất thứ hai được sử dụng phổ biến hơn ESP do SAR cho thấy nồng độ cả Na+ và Ca+, Mg+ trong dung dịch.
SAR = [Na+]/(1/2([Ca2+] + [Mg2+]))1/2
Với [Na+], [Ca2+], [ Mg2+] là nồng độ của Natri, Canxi, Magiê trong dung dịch, tính bằng mol/lít. Tác hại của ion Na+ sẽ giảm khi có sự hiện diện của các cation Ca, Mg.

Dưới đây là bảng liệt kê một số đặc điểm tiêu biểu của đất mặn.


Đặc điểm

Đất mặn

1.Hóa chất

a. muối trung tính bao gồm các clorua và sunphát canxi, natri và magiê chiếm tỉ lệ cao trong thành phần ion của đất mặn.

b. pH của đất mặn thấp hơn 8.5

c. Độ dẫn điện của đất mặn luôn lớn hơn 4 m / dS ở 25 ° C.

d. tỉ lệ trao đổi Natri: ESP < 15.

Tỉ lệ hấp phụ Natri: SAR < 13



e. . Mặc dù Na thường là cation hòa tan chiếm ưu thế, các giải pháp đất cũng chứa số lượng đáng kể các cation hóa trị hai, ví dụ như Ca và Mg.

Đất có thể chứa một lượng đáng kể các hợp chất canxi hòa tan ít, ví dụ như thạch cao.

2. Vật lý

a. . Trong sự hiện diện của muối hòa tan vượt quá trung tính làm phá vỡ cấu trúc của đất.

b. . Tính thấm của đất nước và không khí kém hơn so với đất bình thường.

3 Ảnh hưởng về tăng trưởng thực vật

Trong đất mặn tăng trưởng thực vật có ảnh hưởng bất lợi:

a. Thông qua tác dụng của muối dư thừa về áp suất thẩm thấu của dung dịch đất và kết quả là giảm lượng nước nước trong cơ thể thực vật. Có thể làm thực vật mất nước và chết.

b. Có thể gây ngộ độc với một số loại thực vật thông qua độc tính của các ion cụ thể, ví dụ như Na, Cl, B, vv;

4. Cải tạo đất

. Cải thiện đất mặn chủ yếu yêu cầu loại bỏ các muối hòa tan trong tầng đất mặt thông qua thẩm thấu và thoát nước.

5Địa lý phân phối

. Đất mặn có xu hướng chiếm ưu thế ở các vùng khô cằn và bán khô hạn. Ngoài ra còn phân bố ở những vùng trũng, cửa sông, ven biển…

Chất lượng nước mặt đất

. Nước ngầm ở các khu vực chi phối bởi đất mặn có nồng độ điện nói chung và nồng độ các muối cao.


Đặc điểm thành phần của một số loại đất mặn.
TYPICAL SALINE SOIL REPRESENTING ADDALA SERIES, IRAQ (Sehgal, 1980)


Độ sâu cm

Cơ cấu%

pHs

ECE dS / m

Composition of the Saturation Extract me/l

SAR

Chất hữu cơ%

Clay <2 m

Đất bùn (20-50 m)

Sand (50 m - 2 mm)

Na +

Ca + +

Mg + +

Cl -

SO 4 -

0-15

1.1

39

46

15

7.4

12

20

78

30

111

16

2.7

15-37

0.9

40

46

14

7.6

13

48

70

30

123

20

6.7

37-66

0.6

43

51

6

7.9

10

66

30

28

87

42

12.0

66-127

0.6

37

52

11

7.9

14

106

40

26

93

68

18.0

127-136

0.5

37

55

8

7.9

15

123

32

38

105

96

22.0

* PH S - pH đo được trên nền đất ngập dán.


tải về 376.52 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương