Tự Do Ngôn Luận Bán Nguyệt San



tải về 0.88 Mb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu09.05.2018
Kích0.88 Mb.
#37839
  1   2

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San






GIẢI NHÂN QUYỀN

VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011

TRONG SỐ NÀY



Xét rằng 

1- Một tuần lễ sau khi giàn khoan khổng lồ mang tên Hải Dương 981 của Trung Quốc kéo vào lãnh hải nước ta, nhà cầm quyền Việt Nam mới phản ứng. Tuy nhiên, đó chỉ là một phản ứng hết sức dè dặt và hoàn toàn không tương xứng với chủ kiến vừa khiêu khích vừa xâm lược từ Bắc Kinh, vì nó chỉ phát xuất từ các viên chức bậc thấp trong bộ máy nhà nước và từ một lực lượng nhỏ duy trì trật tự trên biển. Đây là một thái độ vừa nhu nhược vừa đớn hèn.

2- Nhu nhược là nguồn gốc của tội lỗi, còn đớn hèn là căn nguyên của mất nước. Kinh nghiệm xương máu này đã tích tụ từ nhiều triều đại trong lịch sử dân tộc Việt, để mỗi lần được lặp lại là một lần người dân Việt phải ngậm đắng nuốt cay trước những gương mặt lãnh đạo quốc gia hoàn toàn bất xứng. Nếu ngay vào lúc này, giới cầm quyền ở Việt Nam muốn phát động một cuộc biểu tình của dân chúng chống lại sự can thiệp của Trung Quốc, liệu còn được bao nhiêu người dân xuống đường?

3- Niềm tin của người dân đối với chế độ Cộng sản nay đã gần như tiêu biến hoàn toàn và đó là một thất bại lớn lao trên bình diện dân tộc. Mất niềm tin vào chế độ cũng dẫn đến não trạng vô cảm của không ít người dân dù phải đối mặt với hiểm họa ngoại bang xâm lược. Một trong những nguyên do của sự vô cảm ấy chính là thái độ của nhà cầm quyền, bày tỏ qua việc giới lãnh đạo chính trị và ngành công an đã luôn tìm cách ngăn chặn, khống chế, thậm chí đàn áp quần chúng nhân dân biểu tình chống Trung Quốc từ nhiều năm qua, đặc biệt từ giữa năm 2011 đến nay.

4- Những năm gần đây, do cay đắng và tự trọng, nhân dân đã công khai vạch mặt những Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung và Lê Chiêu Thống thời hiện đại, công kích cái gọi là “chính sách ngoại giao do đầu óc khôn khéo mềm mỏng” mà thật ra là “chính sách ngoại giao đầu gối mềm nhũn” đi từ lẩn khuất đến công nhiên trong một bộ phận lãnh đạo mà vốn đang quét sạch chút ý chí còn lại của nhân dân và quân đội. “Chính sách ngoại giao đầu gối” đó chẳng những không bao giờ khiến được 500 đại biểu quốc hội và gần 200 ủy viên trung ương đảng cầm súng ra mặt trận, mà còn khiến không mấy người dân tình nguyện đỡ đạn ở chốn tiền tuyến thay cho các nhóm lợi ích tham lam vốn chuẩn bị biến khỏi đất nước vào thời điểm Tổ quốc lâm nguy.

5- Với người bạn “Bốn Tốt”, tất cả chỉ mới bắt đầu. Bắt đầu một trang lịch sử tái nô dịch Việt Nam, bắt đầu một chiến dịch thăm dò phản ứng, uy hiếp ngang nhiên, tiến tới xâm lược tổng lực đối với Tổ quốc Dân tộc. Trước hiểm họa xâm lăng này, vẫn chưa thấy giới lãnh đạo VN làm gì xứng hợp để ngăn chặn nó, ít nhất cũng với lòng kiên định và tính nhanh nhạy mà họ đã thường phô bày để chế ngự ý chí phản kháng ngoại bang của nhân dân, vẫn chưa thấy giới lãnh đạo VN đủ hồi tâm, nhất trí và quyết đoán để chấp nhận một cuộc biểu thị lòng yêu nước của trí thức và thường dân, tại ít nhất hai thành phố trung tâm là Hà Nội và Sài Gòn!

6- Cuộc biểu tình dự kiến vào ngày chủ nhật 11-05-2014 tới đây tại Hà Nội và Sài Gòn có thể là khúc bi tráng đầu tiên trong giai điệu ai ca buồn thảm của dân tộc. Nhưng giá trị lịch sử của các tầng lớp nhân dân yêu nước vẫn còn nguyên vẹn, từ nhân sĩ trí thức, chức sắc tôn giáo, sinh viên học sinh, nông dân lao động, đến cựu chiến binh, đảng viên lão thành… kể cả chiến sĩ quân đội và nhân viên công an tại ngũ mà con số ý thức và phản tỉnh ngày càng tăng dần. Đây là những người còn mất ngủ trước hiện tình hỗn mang đất nước, còn linh cảm về tương lai tồi tệ của một quốc gia nô bộc, còn chưa thể bỏ mặc dĩ vãng đớn đau của “Ngàn năm Bắc thuộc”.

Do đó, chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự ký tên dưới đây đồng tuyên bố:

1- Đanh thép lên án hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc, đồng thời lên tiếng phản kháng thái độ nhu nhược không thể chấp nhận được của Nhà nước VN.

2- Nhà nước Việt Nam phải tiến hành điều tra ngay lập tức về chuyện liệu có một quan hệ “đi đêm” nào giữa những quan chức nào đó của Việt Nam với người Trung Quốc để dẫn đến hậu quả ngang nhiên và ngang ngược như ngày hôm nay?

3- Với tư cách là một quốc gia nằm trong Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng vô điều kiện bản nghị quyết về biểu tình ôn hòa của người dân mà Hội đồng Nhân quyền vừa thông qua vào tháng 4/2014. Hãy vớt vát lại niềm tin nơi dân chúng bằng việc hủy bỏ chủ trương ngăn chặn và đàn áp đối các tầng lớp nhân dân chỉ xuống đường vì lòng yêu nước chứ không phải nhằm lật đổ chế độ.

4- Mọi tầng lớp nhân dân đã đến lúc không cần phân biệt “Lề phải” và “Lề trái”, hãy cùng kết tay nhau và nắm tay giới cán bộ, công chức còn nặng tình quê hương trong hệ thống đảng và chính quyền, gìn giữ những giá trị cuối cùng nhưng sắp mất nốt của dân tộc chúng ta.

5- Dù quá muộn, nhưng vẫn còn kịp để dân chủ hóa đất nước. Không có dân chủ, quốc gia sẽ suy vong, nhân dân sẽ lầm than điêu đứng, đất nước sẽ mất vào tay ngoại bang và sẽ không có gì bảo đảm một tương lai có hậu dành cho giới lãnh đạo thiếu bản lĩnh chính trị và lòng thương nước thương nòi.



Việt Nam ngày 09-05-2014

Đồng ký tên tuyên bố bởi:

1- Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi. 2- Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Bà Dương Thị Tân, Huỳnh Thục Vy. 3- Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn Văn Đài. 4- Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: Ht. Thích Không Tánh. 5- Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế. 6- Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ. 7- Giáo Hội PGHH Thuần Túy: Hội trưởng Lê Quang Liêm. 8- Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Lm. Lê Ngọc Thanh. 9- Khối 8406: Ks. Đỗ Nam Hải. 10- Hội Đồng Liên Tôn: Công Giáo: Lm. Đinh Hữu Thoại, Phật Giáo: HT. Thích Không Tánh, Cao Đài: Chánh Trị Sự Hứa Phi, Tin Lành: Ms. Nguyễn Hoàng Hoa, Ms. Nguyễn Mạnh Hùng, Phật Giáo Hòa Hảo: Hội trưởng Lê Quang Liêm. 11- Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Ls. Nguyễn Bắc Truyển. 12- Bạch Đằng Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải. 13- Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng.
Vì lý do kỹ thuật, chúng tôi xin phép đăng phẩn 2 bài viết “Vai trò của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaol ô II trong việc làm sụp đổ chế độ Cộng sản Đông Âu” vào số báo sau. Xin quý độc giả vui lòng thông cảm.
  Ngày 3-5-2014, chính quyền Bắc Kinh thông báo việc đưa một giàn khoan cực lớn mang tên Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam (ở 15o29' Bắc/110o12' Đông, tương đương với Lô 143 trong vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam). Đây là một địa điểm nằm gọn trong vùng Đặc quyền kinh tế 200 hải lý cách xa bờ biển Việt Nam như được định nghĩa trong Luật Biển của Liên Hiệp quốc (theo Công ước LHQ về Luật Biển). Chính quyền Bắc Kinh còn cảnh cáo là các tàu ngoại quốc không nên đến gần giàn khoan trong vòng ba hải lý. Bắc Kinh còn gởi 80 chiếc tàu đủ loại, trong đó có 7 tàu chiến, xuống để ngăn chặn không cho Việt Nam thực thi chủ quyền của mình trong vùng biển đó.

Tất cả những hành động trên đã được đơn phương thực hiện nhằm tìm cách thực thi đường lưỡi bò chín vạch đòi hơn 80 phần trăm của Biển Đông, một sự đòi hỏi không hề được công nhận bởi Ủy ban Luật biển của Liên Hiệp quốc và bị hầu hết thế giới lên án và coi là bất hợp pháp. 

Hành động của Trung Cộng được xem là "khiêu khích và không giúp ích vào việc duy trì hoà bình và ổn định ở trong khu vực" (theo phát ngôn nhân Jen Psaki của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 7-5-2014) nên dư luận ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều phẫn nộ trước hành động bá quyền cướp biển này của Trung Quốc.

Chúng tôi, các cộng đồng, hội đoàn và đoàn thể của người Việt trên khắp thế giới, do đó tuyên bố:

Thứ nhất, chúng tôi cực lực lên án hành động mới nhất và trắng trợn nhất này của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, một bước đi nữa trong trò chơi nguy hiểm của Trung Quốc đùa giỡn với chiến tranh trong một vùng đang phát triển mạnh, một vùng đã có được hòa bình trong hơn một phần tư thế kỷ qua.

Thứ hai, chúng tôi đoàn kết với hầu như tuyệt đại đa số 90 triệu dân VN ở trong nước để đòi hỏi Trung Quốc phải tức khắc rút lui giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam, đồng thời lên án nhà cầm quyền Hà Nội đã quá nhu nhược trong chính sách biển Đông.

  Thứ ba, chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội chấm dứt việc đàn áp và bắt giam các tiếng nói dân chủ, và hãy trả tự do ngay lập tức tất cả các tù nhân lương tâm bị bắt giữ vì lên tiếng chống lại chính sách bành trướng của Bắc Kinh.

Thứ tư, chúng tôi hối thúc việc đem kiện Trung Quốc trước các tòa án quốc tế (đặc biệt là Tòa án Quốc tế La Haye và Tòa án Quốc tế Hamburg về Luật Biển) để nhờ các tòa án này phân xử hành động xâm lăng của Trung Quốc đối với lãnh hải và hải đảo của Việt Nam tại Biển Đông.

  Thứ năm, chúng tôi kêu gọi sự đoàn kết trong các quốc gia trong khối ASEAN khi cuối tuần này có những cuộc thương thảo để chuyển Tuyên bố về Hành xử ở Biển Đông thành Quy tắc Hành xử nhằm bảo đảm hòa bình và ổn định ở trong khu vực.

Thứ sáu, chúng tôi kêu gọi dư luận thế giới hãy dứt khoát lên án các tham vọng bá quyền của Trung Quốc nhằm biến Biển Đông với những tài nguyên vô lượng của nó thành một "nội hải" của Trung Quốc. Chúng tôi cám ơn các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã lên tiếng không chỉ vì Việt Nam mà còn vì hòa bình và an ninh quốc tế, không ngoại trừ quyền tự do hàng hải qua vùng này ở Biển Đông.

Chỉ khi nào có được một nỗ lực tập thể và đoàn kết như vậy thì chúng ta mới có thể bảo vệ được hòa bình thế giới và ngăn ngừa bàn tay đầy tham vọng cướp đất cướp biển của Trung Quốc.



Ngày 10 tháng 5 năm 2014.

Những cộng đồng, hội đoàn, đoàn thể Việt Nam đã ký vào bản Tuyên bố này: 1- Cộng đồng Việt Nam vùng Washington DC, Mary-land và Virginia (Đoàn Hữu Định, Chủ tịch). 2- Đại Việt Cách Mạng đảng (Dân Trần, Chủ tịch). 3- Đảng Dân chủ Nhân dân Việt Nam (Đỗ Thành Công, Phát ngôn nhân). 4- Đảng Vì Dân (Nguyễn Công Bằng, Chủ tịch). 5- Hiệp hội Đoàn kết Công Nông Việt Nam (Nguyễn Mai, Việt Nam và Trương Quốc Việt, Úc Châu đồng phát ngôn viên). 6- Liên đoàn Lao động Việt Tự do (Trần Ngọc Thành, Chủ tịch). 7- Liên minh Dân chủ Việt Nam (Nguyễn Quốc Nam, Phó Chủ tịch). 8- Lực lượng Dân tộc Cứu nguy Tổ quốc (Trần Quốc Bảo, Chủ tịch Hội đồng Điều hợp Trung ương). 9- Lực lượng Dân tộc Quật khởi (Bùi Anh Thư, Phát ngôn nhân). 10- Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam (Tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng, Trưởng ban Phối hợp). 11- Nghị hội Toàn quốc Người Việt tại Hoa Kỳ (Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch Hội đồng Điều hợp Trung ương). 12- Phong trào Giáo dân Việt Nam Hải ngoại (Đỗ Như Điện, Điều hợp viên). 13- Phụ nữ vì Nhân quyền Việt Nam (Lan-ney Trần, Chủ tịch). 14- Tập hợp vì Nền Dân chủ (Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, Đại diện). 15- Tổng hội Nha Kỹ thuật Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Đoàn Hữu Định, Đại diện). 16- Trung tâm Nhân quyền Việt Nam (Luật sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch). 17- Ủy ban Bảo vệ Người Lao động Việt Nam (Nguyễn Văn Tánh, Chủ tịch). 18- Viện Quốc tế vì Việt Nam (G.S. Đoàn Viết Hoạt, Đại diện). 19- Việt Nam Canh tân Cách Mạng đảng (Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch). 20- Việt Nam Quốc Dân đảng, Hội đồng Điều hợp TƯ các Cơ sở VNQDĐ tại Hải ngoại (Trần Tử Thanh, Chủ tịch) 

Giang sơn Tổ quốc lâm nguy.


Cộng sản còn đó, trông gì vững an !
Chúng tôi, 20 tổ chức xã hội dân sự khởi xướng lời kêu gọi biểu tình ôn hòa ngày 11-5-2014 để lên án hành động xâm lược trắng trợn của nhà cầm quyền Trung Quốc tại Biển Đông, chân thành cảm ơn đồng bào và các tổ chức đã hưởng ứng tham gia sự kiện này tại Hà Nội, Sài Gòn và các nơi khác; cảm ơn các lực lượng chức năng đã giữ trật tự để các cuộc biểu tình, tuần hành diễn ra tốt đẹp. Cho dù có nhiều nhóm với nhiều quan điểm khác nhau cùng tham gia, nhưng chúng ta đều có một điểm chung, đó là tấm lòng hướng về đất nước, và chính điều đó là chất xúc tác khiến sự kiện này thành công.

Mục đích tối hậu của chúng ta dứt khoát phải là: Giàn khoan HD-981 phải rút khỏi vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Do đó:


Các tổ chức khởi xướng hoan nghênh và kêu gọi đồng bào, mọi tổ chức tiếp tục tham gia vào những hoạt động phản đối, lên án nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lược. Trọng tâm của các hoạt động là biểu tình, tuần hành, mit-tinh ôn hòa, có trật tự với ba mục tiêu chính:

1. Lên án, phản đối hành động xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc và đòi hỏi Trung Quốc phải ngay lập tức rút giàn khoan HD-981 khỏi vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam;

2. Yêu cầu nhà nước Việt Nam tiếp tục các biện pháp dứt khoát đã được khởi động trên mặt trận bảo vệ chủ quyền, đấu tranh ngoại giao và đấu tranh pháp lý;

3. Yêu cầu trả tự do cho các công dân yêu nước bị bỏ tù vì những hoạt động bảo vệ chủ quyền, chống Trung Quốc xâm lược;

Bên cạnh đó chúng ta hãy cùng nhau mở rộng thêm các hoạt động:

- Thăm hỏi, gây quỹ để ủng hộ và hỗ trợ các lực lượng chấp pháp của Việt Nam đang ngày đêm dũng cảm đương đầu với hành động xâm lược của Trung Quốc trên Biển Đông, nhất là gia đình những người bị thiệt hại;

- Góp phần thúc đẩy sự ủng hộ của chính phủ các quốc gia, của nhân dân thế giới trước hành động nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình trong khu vực;

- Vận động, thuyết phục các bộ phận chức năng của nhà nước không gây cản trở cho những hành động yêu nước, cũng như vận động người dân kiên trì tranh đấu với tinh thần dứt khoát nhưng bằng thái độ và hành động ôn hòa. Quan điểm của chúng tôi là kiên quyết không chấp nhận việc sử dụng bạo lực.

Với mục tiêu tối hậu: "Giàn khoan HD-981 phải rút khỏi vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam", các hoạt động biểu tình, tuần hành sẽ được tiến hành hàng tuần vào 9h00 sáng Chủ nhật tại những địa điểm sẽ được thông báo.

Với tinh thần đoàn kết và đặt Tổ Quốc lên trên hết, chúng tôi kêu gọi sự tham gia và đồng lòng ủng hộ mọi sáng kiến của các tổ chức, hội đoàn, nhóm xã hội khác trong các hoạt động có cùng mục đích.



15-05-2014

20 tổ chức dân sự đồng ký tên:

1- Ba Sàm. 2- Con Đường Việt Nam. 3- Dân Làm Báo. 4- Dân Luận. 5- Diễn đàn Xã hội Dân sự. 6- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo. 7- Hội Anh Em Dân Chủ. 8- Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo. 9- Hội Bầu Bí Tương Thân. 10- Hội Đồng Liên Tôn. 11- Khối 8406. 12- Mạng Lưới Blogger Việt Nam. 13- Nhật Ký Yêu Nước. 14- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. 15- No-U Hà Nội. 16- No-U Sài Gòn. 17- Phong trào Liên Đới Dân Oan. 18- Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 19- Truyền thông Chúa Cứu Thế. 20- VOICE

LỜI KÊU GỌI CỦA HỘI CỰU TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM:

Bình Dương: 500 công nhân bị bắt và Biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc xâm lược

15/5/2014

Theo các nguồn tin báo chí, trong hai ngày 12 và 13/5 gần 30 ngàn công nhân đã đình công chống hành động xâm lược của Trung Quốc (TQ) qua việc kéo dàn khoan HD 981 vào sâu trong thềm lục địa VN cùng nhiều máy bay tàu chiến.

Cũng theo tin báo chí, lực lượng cảnh sát cơ động và quân đội đã tiến hành dẹp bạo loạn và bắt ít nhất 500 người.

Hội CTNLT quan ngại sâu sắc đến tình hình bạo loạn này.

Lịch sử VN dù thời kỳ nào, ngay cả trong thời chiến tranh, người dân đều được quyền tự do bày tỏ thái độ của mình đối với ngoại xâm một cách mạnh mẽ nhất. Suốt 40 năm qua, hành động bá quyền của TQ đã không bị chính quyền phản ứng đúng mức, không những thế, chính quyền còn ngăn trở. Bị ức chế, cộng thêm lương bổng lao động thấp và mất quyền có công đoàn riêng để bảo vệ và hướng dẫn đã khiến giới công nhân dễ bị kích động.

Nhiều người đã bày tỏ thái độ chống TQ đã bị bắt : Điếu CàyBùi Hằng, Anh Ba Sàm. Nhiều người vận động cải thiện đời sống công nhân đã bị bắt : Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương.

Chúng tôi kêu gọi chính quyền VN đặc biệt tôn trọng quyền biểu tình ôn hòa phản đối hành động xâm lăng của TQ. Người dân có quyền bày tỏ ở mọi nơi, từ trong nhà ra đến nơi công cộng mà không sợ bị đàn áp bắt bớ. Vài cá nhân quá khích, bạo loạn không thể làm lu mờ giá trị bất biến của quyền biểu tình ôn hòa.

Chúng tôi kêu gọi lực lượng an ninh điều tra không dùng nhục hình, tra tấn những công nhân bị bắt và công tâm tìm ra thủ phạm đích thực xúi giục bạo động. Chúng tôi cũng quan tâm đến điều kiện giam cầm 500 bị can trong thời gian điều tra xét hỏi, nơi mà giá trị nhân phẩm hoàn toàn có thể bị xâm phạm trong cơ chế giam cầm hiện nay.



Hội CTNLT kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân hãy thực hiện quyền tự do bày tỏ thái độ phản đối hành động xâm lăng của TQ một cách ôn hòa.

Ngày 15/5/2014, Thường trực BĐH Hội CTNLT.

  1. Bs Nguyễn Đan Quế

  2. Lm. Phan Văn Lợi

  3. HT. Thích Không Tánh

  4. Ls. Nguyễn Văn Đài

  5. Ts. Phạm Chí Dũng

  6. Ths. Phạm Bá Hải



Viện Tăng thống vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Tuyên cáo của Hội đồng Lưỡng viện (Viện Tăng thống và Viện Hoá đạo) về vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 xâm phạm thềm lục địa Việt Nam hôm 1-5-2014. Bức Tuyên cáo xác định và kêu gọi: “Với trách nhiệm của người công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không thể im lặng khi tổ quốc lâm nguy, nên cất lời kêu gọi giới sĩ phu thời đại trong nước và ngoài nước hãy khẩn cấp đứng lên vận động hợp quần cứu nguy”. Sau đây là toàn văn Tuyên cáo :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VNTN

VIỆN TĂNG THỐNG

90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon

Phật lịch 2558

Số 03 /TC/TT/VTT

TUYÊN CÁO

của Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất về việc Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việt Nam

Đầu tháng 5 này, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã từ phía Tây bắc đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, xâm nhập lãnh hải Việt Nam trong vùng biển đặc quyền kinh tế, cách bờ biển nước Việt 120 hải lý. Trong hàng chục tàu hộ tống giàn khoan HD 981 có sự hiện diện của tàu chiến quân sự như tàu Giang Hồ II có tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh 534… và hàng chục tốp máy bay hoạt động bảo vệ. Nhiều tàu hải cảnh đã tấn công đâm húc vào tàu cảnh sát biển Việt Nam làm hư hại nhiều tàu.

Hành động ngang ngược này vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế trên thềm lục địa Việt Nam, vi phạm thoả thuận giải quyết các vấn đề trên biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC), không thể chối cãi là không mang tính xâm lược vào lãnh hải Việt Nam.

Đứng trước tình hình nghiêm trọng của tổ quốc, trước sự phẫn uất của đồng bào các giới trong và ngoài nước, Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có phiên họp bất thường và khẩn cấp, cùng đồng thanh ra lời Tuyên cáo ba điểm như sau :

1- Yêu cầu Nhà nước XHCNVN và đảng Cộng sản Việt Nam học cách hành xử cương quyết bảo vệ chủ quyền Việt Nam như thái độ cố hữu trong truyền thống dân tộc dưới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, mà tương quan thế giới ngày nay cho ta phương thức thực hiện trên hai mặt Quốc tế và Quốc nội :

a. Trên mặt quốc tế, tức khắc đưa vấn đề vi phạm chủ quyền trên biển của Trung Quốc ra LHQ chiếu theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982.

Đối với các nước ASEAN kêu gọi sự đối thoại đa phương để giải quyết vấn đề Biển Đông, thay vì đối thoại song phương như Trung Quốc yêu sách, đồng thời kết hợp với các nước trong vùng làm đối trọng trước cuộc xâm lấn biển của nhà cầm quyền Bắc Kinh.

b. Trên mặt quốc nội, hãy bỏ Điều 4 trên Hiến pháp, để toàn dân, các đảng phái quốc gia, và các cộng đồng tôn giáo, có toàn quyền bình đẳng và đồng đẳng trong công cuộc chống xâm lăng, bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Nhà nước XHCNVN và đảng Cộng sản Việt Nam không thể tiếp tục nhận lệnh của quan thầy Cộng sản Trung Quốc để “gác tranh chấp, cùng chung khai thác” Biển Đông theo phương châm 16/4 (Mười sáu chữ vàng và Bốn tốt); lấy “đại cục” và “xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục” của Cộng sản Bắc Kinh để gặm nhắm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.

2- Kêu gọi đồng bào Việt Nam các giới trong và ngoài nước, quý vị thân hào nhân sĩ, các đảng phái, và các cộng đồng tôn giáo khẩn cấp hình thành một “Liên minh chống Ngoại xâm”, ngăn chặn “Liên minh Thu phục Lãnh thổ” của Bắc Kinh. Đồng thời kết hợp thành phong trào chuẩn bị tiến trình dân chủ hoá Việt Nam làm động cơ phát triển đất nước và thoát ly hoàn cảnh nô lệ chính trị của Nhà nước hiện tại. Phi thể chế dân chủ đa nguyên, mọi nhân quyền và tự do của người dân không thể thiết lập, hạnh phúc và an lạc không thể xuất hiện, no cơm ấm áo cho dân và cường thịnh cho đất nước không thể nào mang lại cho quê hương Việt Nam.

3- Kêu gọi chư Tăng Ni và Phật giáo đồ Trung Quốc hãy vì tình đồng đạo chia sẻ giáo lý đại từ bi cứu khổ với nhân dân Việt Nam, mà hai dân tộc từng sống chung dưới Ánh Đạo Vàng suốt hai nghìn năm qua, mở cuộc vận động với nhà cầm quyền Bắc Kinh áp dụng đạo lý bốn biển đều là anh em để thay đổi chính sách xâm lược thành hành động tương quan tương duyên trong tinh thần trượng phu thông cảm và tôn trọng lẫn nhau.

Với trách nhiệm của người công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không thể im lặng khi tổ quốc lâm nguy, nên cất lời kêu gọi giới sĩ phu thời đại trong nước và ngoài nước hãy khẩn cấp đứng lên vận động hợp quần cứu nguy.

Thanh Minh Thiền Viện, Saigon ngày 10-5-2014

T.M Hội đồng Lưỡng viện, GHPGVNTN



Đệ Ngũ Tăng Thống

(ấn ký)

Sa môn Thích Quảng Độ

-----------------------------------

Từ ngày 02-05-2014 vừa qua cho đến nay, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan HD-981 và một lực lượng lớn tàu bè các loại trong đó có cả tàu quân sự vào xâm chiếm và hoạt động trong vùng biển đăc quyền và thềm lục địa của Việt Nam. Trong các ngày 3 và 4-05-2014, 5 tàu quân sự Trung Quốc với sự yểm trợ của máy bay đã tấn công các tàu Kiểm ngư và Cảnh sát biển Việt Nam đang làm nhiệm vụ. Đây là hành vi khiêu khích và leo thang nghiêm trọng với ý đồ rõ ràng thực hiện từng bước kế hoặch xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, bất chấp các nguyên tắc ứng xử Quốc tế mà Trung Quốc và Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), Qui tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC). Tình hình này có nguy cơ đưa đến chiến tranh rất cao. Quan ngại trước tình hình căng thẳng và nguy hiểm này, Hội đồng Giám mục Việt Nam, với trách nhiệm của mình, xin nêu lên quan điểm và kêu gọi như sau:

1- Giáo hội Công giáo luôn kiên trì lập trường xây dựng hoà bình, phản đối chiến tranh. Hoà bình không làm mất điều gì, nhưng chiến tranh có thể làm mất tất cả. Vì thế, mọi tranh chấp hiện nay cần phải kiên trì với đường lối đối thoại; loại trừ tất cả mọi hành vi khiêu khích, gây hấn, kích động chiến tranh, hận thù của đôi bên. Chính quyền Trung Quốc phải ngừng ngay mọi hành vi xâm lăng này. Hãy để những lời của Đức Giáo hoàng Phaolô VI vang lên một lần nữa: “Đừng có ai chống lại người khác nữa, đừng, đừng bao giờ nữa!… Chiến tranh đừng bao giờ xảy ra, đừng bao giờ chiến tranh một lần nữa!” (Diễn từ tại Liên Hiệp Quốc, 1965). “Hòa bình chỉ thể hiện chính mình trong hòa bình, một nền hòa bình không tách rời khỏi những đòi hỏi của công lý nhưng được nuôi dưỡng bởi sự hy sinh cá nhân, khoan dung, lòng thương xót và tình yêu” (Thông điệp Ngày thế giới hoà bình, 1975).

2- Với Chính phủ Việt Nam, tuy phải kiên trì đường lối ngoại giao, đối thoại để giải quyết xung đột, nhưng phải có lập trường kiên định, lấy đạo lý truyền thống dân tộc vì dân, vì nước để thực hiện đường lối chính sách với Trung Quốc. Những thoả ước tôn trọng tình hữu nghị giữa hai quốc gia láng giềng, giữa hai đảng Cộng sản thực tế đã cho thấy không mang lại ích lợi nhiều cho dân nước mà còn đưa đất nước vào tình trạng lâm nguy. 

3- Với người Công giáo Việt Nam, đây là lúc chúng ta cần biểu lộ trọn vẹn lòng ái quốc của mình theo lời Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI huấn dụ: “Là người công giáo tốt cũng là công dân tốt”. Lòng yêu nước thể hiện ở việc chúng ta không thể thờ ơ với tình hình của đất nước trong hiện tại cũng như tương lai, chuyên cần hy sinh cầu nguyện cho quê hương đất nước và với tất cả lương tâm của mình tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đáp lại lời mời gọi cứu nguy Tổ quốc.

4. Hội đồng Giám mục Việt Nam xin các giáo phận tổ chức một ngày cầu nguyện cho Quê hương, kêu gọi mọi người sám hối, tiết giảm chi tiêu ăn uống, mua sắm, để góp phần nâng đỡ các ngư dân nạn nhân của tàu Trung Quốc và các chiến sĩ cảnh sát, hải giám Việt Nam bị thương, theo như sáng kiến kêu gọi một ngày cầu nguyện cho hoà bình của Syria của Đức Thánh cha Phanxicô ngày 07-09-2013. Thực hiện theo Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo, Hội đồng Giám mục VN luôn nỗ lực thể hiện đường lối xây dựng hoà bình trong sứ vụ của mình và mong muốn công lý và hoà bình được thực thi trong cuộc xung đột hiện nay. 

Ngày 09-05-2014

Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam: Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM TGP Sài Gòn

PHẬT GIÁO HÒA HẢO THUẦN TÚY

HIỆU TRIỆU

Hỡi anh em trong nhà Nam Việt !

Nhớ nước ta hùng liệt thuở xưa.

Ngàn năm Bắc địch vày bừa,

Mà còn đứng dậy tống đưa quân thù.

Tiếng roi lại bình Ngô sát Đát,

Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm

Là con Hồng cháu Lạc, chúng ta làm sao quên được những trang sử bi thảm ngàn năm Bắc thuộc Trung Quốc đã giày xéo quê hương yêu quí của chúng ta, chà đạp lên đời sống của Dân tộc ta.

Những tấm gương sáng rạng ngời của tiền nhân ta: Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê là những trang sử oai hùng oanh liệt lưu lại cho chúng ta nhớ đến bổn phận thiêng liêng: bảo vệ Tổ quốc.

Nay, Tàu cộng lúc nào cũng nuôi tham vọng thôn tính nước ta, ngang ngược chiếm đảo, chiếm biển, chiếm đất, khai thác beauxit Tây Nguyên… rồi giờ đây lại đặt khoan dầu ở Biển Đông  một cách khiêu khích, coi 90 triệu đồng bào chúng ta như cỏ rác…



Vậy thì ta hãy hiệp bè,

Cùng nhau đoàn kết đặng khoe sức hùng.

Khắp Bắc Nam đùng đùng một trận,

Ấy mới mong quốc vận phục hồi.

Trước là dẹp lũ cộng bồi,

Sau đưa quốc tặc qui hồi Diêm cung.

Nếu nay chẳng vẫy vùng cương quyết,

Thì ắt là tiêu diệt giống nòi…

Đồng bào ơi !

Chúng ta hãy mạnh mẽ xuống đường để đả đảo Tàu cộng, đả đảo những kẻ mãi quốc cầu vinh, biểu dương tinmh thần kiên cường yêu nước.

ĐEM MÁU XƯƠNG ĐỔI LẤY TỰ DO.

Ngày xuống đường là ngày Chủ nhật 18-5-2014 vào lúc 8 giờ sáng. Địa điểm tập trung: Công viên 30-4 cạnh nhà thờ Đức Bà.



Với tư cách Hội trưởng Trung ương PGHH Thuần túy, tôi tha thiết kêu gọi 7 triệu tín hữu PGHH toàn quốc, nhất là ở Miền Tây HÃY MẠNH MẼ TÍCH CỰC THAM GIA CÁC CUỘC BIỂU TÌNH CỦA ĐỒNG BÀO CHỐNG Tàu cộng.

Việt Nam độc lập muôn năm!

Ngày 14 tháng 5 năm 2014.

TM Giáo Hội PGHH Thuần Túy.

Hội Trưởng Trung Ương

LÊ QUANG LIÊM 



Chiều Chúa nhật ngày 11-5-2014, buổi cầu nguyện đầu tiên tại tư gia tín đồ Tin Lành Bùi Thị Thành, địa chỉ 419/1/16, KP6, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh, đã bị chính quyền bắt bớ,

Trong giờ phút thiêng liêng, có 14 người, mặc dầu khác nhau về hệ phái Tin Lành trong đó có ba vị Mục sư cùng hai giáo viên, một bác sĩ đang cùng gia chủ là Bùi Thị Thành, tất cả hiệp một lòng hướng về Thượng Đế tối cao để dâng lên những lời cầu nguyện… Ai nấy đều được Chúa thăm viếng an ủi, làm cho vui tươi thỏa lòng, thì bất ngờ có nhiều lực lượng công an, an ninh chìm nổi, dân quân, từ các cấp phường, quận, thành phố với những khuôn mặt hung hãn, đập cửa xông vào quay phim, chụp ảnh, yêu cầu mọi người đứng yên, lập biên bản cho rằng tụ tập đông người (dưới 20 người) cầu nguyện là trái phép, chưa được sự cho phép của chính quyền v.v…

Anh Dũng con trai bà Bùi Thị Thành chứng kiến sự ngang ngược, vi phạm lương tâm, nhân quyền, vi phạm Pháp luật của lực lượng chính quyền, liền lên tiếng yêu cầu phải tôn trọng nhà riêng nơi cư trú của công dân, và ngay giữa lúc có Hội thánh đang cầu nguyện, các anh phải đi ra ngoài. 

Nhưng chính quyền đã không nghe mà còn hung tợn hơn. Có kẻ mặc thường phục đi vào ngõ sau nhà lùng sục như lùng bắt tội phạm... anh Dũng phát hiện đuổi ra mà rằng: mấy chú vô nhà đông thế này lỡ mất xe, tài sản thì ai chịu trách nhiệm...! Bị chột dạ liền điên tức, có mấy kẻ mặt hung dữ xông vào đòi đánh và lấy máy ảnh của anh Dũng nhưng mọi người trong Hội thánh liền ra tay can ngăn. Nếu không thì anh Dũng chẳng những đã bị cướp máy ảnh mà còn phải bị một trận mưa đòn thừa chết thiếu sống.



Dân oan Bùi Thị Thành

Nhiều người trong và ngoài nước biết đến bà Thành là một dân oan khiếu kiện nhà đất. Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải từng biết đến và bênh vực bà Thành, vì là một giáo viên bị trù dập do chống tiêu cực trong nhà trường, từ khi ông Khải còn làm lãnh đạo TP. Cô giáo Thành đã phát hiện đáp án sai trong đề thi môn địa lý và đề xuất sửa đáp án. Nhưng vì thể diện của các thầy lập đáp án lớn hơn, nên có chỉ đạo chấm theo đáp án sai và buộc phải vùi dập cô giáo Thành. Thủ tướng vào cuộc và báo chí tốn khá nhiều giấy mực vì vụ bê bối đáp án này. Thủ tướng chỉ đạo phải làm ra ngô ra khoai. Nhưng khi ông Phan Văn Khải về hưu thì người ta cũng cho bà Thành nghỉ dạy, sau hơn 20 năm đứng lớp, chỉ vì bà phát hiện đáp án sai!

Sau khi mất việc thì vợ chồng bà chia tay, một mình bà nuôi hai con ăn học. Rồi cô giáo Thành trở thành dân oan khi bị giải tỏa mất nhà đất (đền bù giá bèo). Trong lúc hoàn cảnh khắc nghiệt chồng chất, bà tìm đến Chúa Jesus như tìm chỗ nương dựa tinh thần. Bà yêu Chúa, yêu Hội thánh của Chúa và yêu những người mồ côi, kẻ góa bụa cùng cảnh. Bà cũng dâng hiến thời gian và tiền bạc cho Hội thánh Chuồng bò Thông công. Cách đây ba năm, trên đường lên Trị An thăm nhà dân oan Lê Thị Kim Thu, bà Thành bị người lạ tông xe tưởng chết, nhưng Chúa cứu sống. Đó là vài nỗi oan trong đời một cô giáo, với bằng cử nhân cao đẳng sư phạm Hà Nội, từ khi nhà bà còn ở quận Cầu Giấy.

Nhưng ít ai biết nỗi oan làm bà tổn thương nặng nhất là ba năm qua, bà bị CA cứ chốt chặn không cho đến nhà thờ vào Chúa nhật. Chúng tôi đã lên tiếng cho cô rất nhiều, nhưng CA cứ viện cớ sợ cô đi biểu tình mà cấm cửa. Bây giờ cô mời con cái Chúa đến nhà cầu nguyện. Theo yêu cầu của phó Chủ tịch phường, bà Thành trình bày lí do buổi nhóm: bà bị CA chốt chặn tại gia, không đi nhóm Chúa nhật được đã hơn ba năm. Vì vậy, bà dâng căn nhà cho Chúa, mời gọi con cái Chúa đến cầu nguyện Chúa nhật hàng tuần. Hôm nay là buổi đầu tiên, và từ nay về sau, mỗi Chúa nhật bà mời gọi con cái Chúa tới hát Thánh ca, cầu nguyện, học Kinh thánh.

Bà Thu Hương, phó chủ tịch phường, yêu cầu bà Thành làm hồ sơ xin phép và chờ đợi chính quyền cho phép thì mới được cầu nguyện. Còn chính quyền chưa cho phép cầu nguyện thì không được, là trái phép. Bà phó phường viện dẫn các loại nghị định, chỉ thị để cấm cầu nguyện tại gia.

Ms. Thân Văn Trường trích dẫn điều 24 Hiến pháp 2013 (HP cũ điều 70) nói đến tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Đây là nguyên tắc bất di dịch, mọi điều luật và văn bản dưới luật trái Hiến pháp đều phải bãi bỏ, không ai được viện dẫn nghị định để cấm cản cầu nguyện. Như thế là vi phạm Hiến pháp tại điều 24.

Do bị công an chốt chặn, nên tâm tình bà Thành là muốn nhà bà là nơi cầu nguyện. Thế nhưng buổi cầu nguyện đầu tiên, họ đã xông vào ngăn cản. Chúng tôi mong rằng, qua buổi làm việc, thì chính quyền đã biết tâm nguyện của bà Thành rồi. Rất mong chính quyền địa phương tôn trọng luật pháp và tạo điều kiện, để xoa dịu vết thương lòng cho một nhà giáo, một dân oan đau khổ suốt nhiều năm qua. Nữ mục sư, bác sĩ Hồng cũng đã tặng văn bản về nhân quyền cho bà Thu Hương. Mong rằng bà Hương và các cấp chính quyền sở tại đọc và thực hành, để không xảy ra vi phạm đáng tiếc. Kính mong con dân Chúa khắp nơi cầu nguyện cho gia đình bà Thành được bình yên và sống trong đức tin, hy vọng.

Tôn vinh Đức Chúa Trời.

Làng Đại học Thủ Đức, mùa hè 2014

Mục sư Phạm Ngọc Thạch

Phone 0977333370




Kính gởi toàn thể đồng đạo và đồng bào quốc nội cùng hải ngoại.

Người xưa nói: “QUỐC GIA HƯNG VONG, THẤT PHU HỮU TRÁCH”. Nước nhà có hưng thịnh hay suy vong thì tất cả toàn dân đều phải có trách nhiệm.

Mấy hôm nay, từ khi giàn khoan HD 981 và một lượng lớn tàu, kể cả tàu quân sự và nhiều lược máy bay xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đây là một hành động mà ai cũng biết là sự khiêu khích và âm mưu bành trướng xâm lược của Trung Cộng đối với biển đông của VN.

Trước tình hình căng thẳng và nóng bỏng như vậy, người dân ba miền Nam–Trung–Bắc đã tuần hành biểu tình lên tiếng hô to những khẩu hiệu “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”, hoặc “Trung Quốc phải cút khỏi biển đông VN…..”

Thế mà giới lãnh đạo ĐCSVN đến giờ phút nầy vẫn im thinh thít chẳng thấy Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, hay Chủ tịch Quốc hội ra trước toàn thể quốc dân, đồng bào kêu gọi đoàn kết một lòng đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược.

Cụ thể như nước Philippines, toàn dân đoàn kết một lòng từ lãnh đạo đất nước tới dân thường, nên họ thành công giữ yên biển đảo, vì họ quan niệm đất nước nầy là của toàn dân, còn ngược lại với Việt Nam, ĐCSVN chủ trương trong điều 4 Hiến pháp: “Đảng CSVN là đảng duy nhứt lãnh đạo đất nước…” và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Cương lĩnh của đảng đứng trên Hiến pháp…”.  Vì vậy rõ ràng người dân hoàn toàn không có quyền.

Đã mang danh lãnh đạo một dân tộc thì phải làm cho tròn trách nhiệm, phải tỏ rõ quan điểm, lập trường cho người dân biết, kêu gọi toàn dân cộng tác để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ mới phải. Đằng nầy thật đau đớn thay! Nhục nhã, xấu hổ thay! Hay vì lãnh đạo đảng đã thỏa hiệp với Trung Cộng bán nước Việt Nam rồi?

Ngày 30-04-1975 ĐCSVN tuyên bố đánh thắng Đế quốc Mỹ, một cường quốc mạnh nhứt thế giới mà hôm nay sao lại khiếp nhược trước ngoại xâm Trung Cộng? Chẳng lẽ ngày hôm qua chiến thắng, ngày hôm nay lại chiến bại hay sao?

Ngày chiến thắng 30-04-1975 ĐCSVN cho rằng đất nước nầy là của họ, nên người dân không có quyền tự yêu nước, muốn yêu nước phải chờ đảng cho phép mới được yêu, vì họ đổ xương máu quá nhiều nên họ phải độc quyền lãnh đạo, độc quyền yêu nước, và độc quyền tất cả mọi khía cạnh vật chất lẫn tâm linh của người dân.

Qua mấy mươi năm do độc tài, độc quyền lãnh đạo đất nước không kể gì đến lòng dân, đó là tiền đề để dẫn đến hệ quả ngày hôm nay:

-  Về dân tộc: Mất chủ quyền, mất độc lập, tự do, mất biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mất Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc….

- Về người dân: Mất quyền dân chủ, mất đất đai, mất nhân quyền, mất tự do tín ngưỡng…. mất tất cả.

Trong khi đó giới lãnh đạo ĐCSVN thì lại được quá nhiều: Được quyền lực, được đôla, được vila, được nhiều đất đai, được tiền tài, xe cộ, tài sản, của cải, giàu có không thể tưởng tượng.

Tuy người dân mặc dầu họ thấp cổ bé miệng nhưng họ có một “cặp mắt xanh xem người thế”; dù họ bị ngược đãi, phân biệt đối xử, bị bức hiếp, bị khống chế, bị đàn áp, đánh đập… vì cưỡng chiếm đất đai, vì niềm tin tôn giáo, vì những bất công xã hội…. nhưng tình thế buộc họ không thể câm nín ngồi yên để mặc tình cho ĐCSVN thao túng, hèn với giặc, ác với dân.

Hôm nay đứng trước hoàn cảnh dân tộc VN bị Trung Cộng xâm lược, từng bước đồng hóa dân tộc chúng ta. Họ đưa hàng loạt người của họ sang VN định cư, sinh sống để thực hiện chính sách đồng hóa từng bước nầy.

Ngày nay, chính sách “Ngu dân để trị” đã lỗi thời và không còn hiệu lực nữa, vì mỗi ngày người dân được chứng kiến bao nhiêu sự bất công, vô lý do quyền lực độc tài của đảng ở trên dân mà đã làm mất lòng tin của dân, nên một khi quyền lực không còn giá trị thì sức mạnh toàn dân là sức nước nhấn chìm tất cả thuyền bè đi trên nước, và mọi thứ gì nghịch lại Thiên ý. “Thuận nhơn ắt thuận Thiên” là như vậy.

Người dân tuy yếu mà mạnh, nhỏ nhoi mà quyền thế, nhịn nhục mà hành phạt. Họ vẫn làm những điều thuận lòng Trời và biết yêu nước thương nòi, từng ngày một họ muốn canh tân cho xã hội, cho mọi người được sống an vui, hòa bình và biết quí trọng quyền làm người, họ vươn lên từng ngày và cống hiến âm thầm từ sức lực, trí tuệ để đánh đổi sự dốt nát, phi lý, họ tìm được con đường tự do để họ sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng.

Đức Giáo chủ Phạm Công Tắc đạo Cao Đài có dạy: “Ngày nào dân tộc Việt Nam định tĩnh được “Quốc Hồn” thì ngày ấy dân tộc Việt Nam mới giải ách nô lệ.

“Quốc Hồn” là linh hồn của nước, của cả một dân tộc mà mọi người ai cũng phải để tâm vào thì nó mới có sức sống động, nó mới có hồn, nó mới thiêng liêng, cao cả. Dân tộc VN mấy mươi năm nay không có Quốc Hồn vì bị chủ nghĩa vô thần bao trùm, khống chế nên không có linh hồn, Trời hay Thần thánh, Tiên, Phật… gì cả! Đã không có linh hồn thì làm gì có hồn nước mà định tĩnh để gìn giữ và giải ách nô lệ của ngoại bang?

Chỉ khi nào toàn dân tộc tin tưởng có linh hồn, tức tin tưởng có Thượng Đế, có quyền năng của Thượng Đế thì hồn nước sẽ có, hồn nước có thì việc giải ách nô lệ ngoại bang là điều hết sức dễ dàng làm, dân tộc mới thật sự độc lập, Tổ quốc, Giang san mới thật sự vẹn toàn, núi sông liền một dải.

Toàn dân định tĩnh được quốc hồn, quốc túy thì dù cho giặc ngoại xâm có lớn mạnh bao nhiêu cũng không đè nổi tinh thần quật cường của toàn dân tộc. Bằng chứng cuộc biểu tình ngày 11-05-2014 vừa qua đã thể hiện lòng yêu nước của người dân VN sau mấy mươi năm bị câm nín, bị đè nén. Cuộc biểu tình được công khai, tuyên bố trước và kêu gọi các hội đoàn (20 hội đoàn) hưởng ứng và đồng hành cùng dân tộc.

Trước khi cuộc biểu tình diễn ra, anh Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm) bị bắt, Luật sư Nguyễn Văn Đài bị đánh… Hành động nầy thể hiện quá rõ quan điểm của ĐCSVN. Vì hai anh Vinh và Đài là người chống Trung Cộng mạnh mẽ bằng ngòi bút và sự hy sinh thân mạng vào tù ra khám, chỉ vì tiếng nói cho công lý, lẽ phải, nhân quyền, dân chủ, tự do, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Đảng không muốn thấy mặt hai anh hiện diện trong ngày biểu tình, nên họ đánh anh Đài để dằn mặt và cảnh cáo, nếu anh thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước của mình, và bắt anh Vinh đem giam cầm để bịt miệng anh, nhằm bịt tiếng nói của toàn dân tộc VN.

Họ lấy thúng úp voi thì rất khó, tình thế nầy đưa đến cho giới lãnh đạo VN phải chọn thái độ và hành động một cách rõ ràng không còn ỡm ờ như trước đây, vì họ không còn lừa dối người dân được nữa rồi.

Ngay trong cuộc biểu tình cũng đã thể hiện hai quan điểm trái ngược nhau, một bên vì lòng yêu nước nồng nàn đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược biển đảo, nêu cao tinh thần quốc gia dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải VN, một bên thì biểu tình bảo vệ đảng và ông Hồ Chí Minh, nêu cao khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”, điều nầy chứng tỏ ĐCSVN lo sợ mất đảng, mất Bác chứ không sợ mất nước.

Qua đó chúng ta thấy vận mạng dân tộc VN sẽ đi về đâu trước tình thế nguy hại giặc Tàu xâm lấn, lãnh đạo ĐCSVN thì vô cảm, lặng thinh, vô trách nhiệm, không tập hợp được quần chúng, không còn đủ huy tín, xứng đáng để lãnh đạo đất nước nữa?

Do vậy, toàn dân phải định tĩnh quốc hồn ra tay cứu dân, cứu nước. Chúng ta hãy đưa lịch sử dân tộc VN sang trang mới, để chấn hưng lại nền độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và sự phồn vinh của dân tộc.



Mỗi người dân một ý chí, góp phần để chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, Giống nòi và lập lại một kỷ cương mới cho dân tộc Việt Nam thật sự Hòa bình - Hạnh phúc - Nhân quyền - Dân chủ và Tự do.

14-05-2014         

Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

TỰ DO NGÔN LUẬN

Bán nguyệt san ra ngày 1 và 15 mỗi tháng

IN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:

witness2005@gmail.com

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

http://www.tdngonluan.com

www.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.com

http://www.viet.no

Trong trang mạng thứ 1 và thứ 3 trên đây, Quý vị có thể tìm thấy nhiều tài liệu đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam
Vào hậu bán thế kỷ 20, thế giới đã chứng kiến hai biến cố lịch sử: Ngày 30-04-1975 Quân đội Nhân dân Việt Nam (Bắc Việt) tiến vào Sài Gòn, kết thúc cuộc chiến ủy nhiệm và mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước dưới một chế độ do đảng Cộng sản lãnh đạo. Ngày 09-11-1989 bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo sự tan rã của chế độ Cộng sản Đông Đức và khai thông cho sự thống nhất nước Đức trong hòa bình, tự do, dân chủ.

Hai quốc gia Việt - Đức cùng mang số phận lãnh thổ bị phân chia sau chiến tranh vì mâu thuẫn ngoại bang và sự khác biệt chính kiến về mô hình xây dựng xã hội giữa các thành phần dân tộc, nhưng cả hai lại theo đuổi mục đích tái thống nhất đất nước bằng phương thức khác biệt.



Việt Nam: Thống nhất đất nước bằng chiến tranh

Sau cuộc chiến chống Pháp (1945-1954) Việt Nam lẽ ra phải được độc lập tự do, nhưng dưới sự dàn xếp của ngoại bang (Mỹ, Pháp, Trung Hoa và Liên Xô) dân tộc đã phải chấp nhận chia đôi lãnh thổ tại hội nghị Genève (Thụy sĩ).

Hiệp định Genève (21-07-1954) quy định các bên tham chiến phải ngừng bắn, giải giáp vũ khí. Việt Nam chia ra thành hai khu vực tập kết tạm thời cho hai bên đối địch. Vĩ tuyến 17 được xem là ranh giới, và một khu phi quân sự tạm thời được lập dọc theo hai bờ sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị. Ngay sau ngày hiệp định được công bố, có 892.876 thường dân di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, trong khi 140.000 người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc.

Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do, dự trù thực hiện vào năm 1956, với lý do mà Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa ra là “nghi ngờ về việc có thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tuyên bố sẽ “không bỏ qua một cơ hội nào để thống nhất Việt Nam trong tự do và hòa bình”.

Vì VNCH không thực hiện tuyển cử, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Hồ Chí Minh quyết định phát động chiến tranh thống nhất đất nước bằng mọi giá.

Đối với các nhà lãnh đạo VN DCCH đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất hoàn toàn cho đất nước, để cả nước tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam, mục tiêu vẫn còn dang dở sau 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954).

Tháng 8-1956, Lê Duẩn soạn “Đề cương cách mạng miền Nam” nhưng đến Hội nghị TƯ 15 năm 1959 mới được thông qua. Đề cương xác định rõ: “Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân

Về phía các nhà lãnh đạo của Mỹ và VNCH, thì xem cuộc chiến thống nhất do VNDCCH chủ trương là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chính phủ Mỹ can thiệp vì muốn ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á (thuyết Domino) và bảo vệ nhân dân Nam Việt Nam được sống trong hòa bình và tự do..

Ngày 20-12-1960 thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) do những người Cộng sản lãnh đạo.

Từ năm 1961 chiến tranh bùng nổ khốc liệt. Với chủ trương “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội” của đảng Lao động Việt Nam (Cộng sản), quân đội VNDC CH dưới danh nghĩa quân giải phóng cách mạng đã phát động liên tiếp các đợt tiến công quy mô, kết hợp đấu tranh quân sự, khủng bố, phá hoại với đấu tranh tình báo chính trị. Từ chiến tranh du kích Tết Mậu Thân (1968) chuyển qua chiến tranh quy ước Mùa hè Đỏ lửa (1972). Và trong giai đoạn 1965-1973 Mỹ đã phải trực tiếp chiến đấu trên chiến trường VN.

Vì áp lực của tình hình nội chính và dư luận quốc tế, các phe tham chiến đã đi đến nhận thức phải đàm phán hòa bình. Hội đàm được chọn tại Paris (Pháp) kéo dài từ tháng 5-1968 đến tháng 1-1973.

Hiệp định Paris về Việt Nam là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa KỳViệt Nam Dân chủ Cộng hòaCộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27-1-1973.

Hòa bình chưa được bao lâu, cơ quan tham mưu của đảng Lao động và VNDCCH lập kế hoạch tiến công đã phân cuộc tiến công này thành các chiến dịch nối tiếp nhau họ gọi là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế Đà Nẵng và, cuối cùng, chiến dịch Hồ Chí Minh. Cuộc tấn công cuối cùng diễn ra từ ngày 5 tháng 3 cho đến ngày 30-4-1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của VNCH đầu hàng vô điều kiện.

Để nhanh chóng thống nhất, thuận lợi cho việc xây dựng chế độ độc đảng xã hội chủ nghĩa trên toàn quốc, ban lãnh đạo đảng Lao động (Cộng sản) ban hành các biện pháp:

- Giải tán guồng máy chính trị, hành chánh của VNCH, giải thể các đoàn thể, hiệp hội chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội dân sự.

- Lùng bắt các thành phần lãnh đạo đảng phái chính trị, tôn giáo, văn hóa và xã hội miền Nam.

- Lập các trung tâm học tập cải tạo để giam giữ hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức dân sự, văn nghệ sĩ của VNCH.

- Thực hiện đổi tiền.

- Di tản hàng triệu người dân thành thị về các vùng kinh tế mới.

- Cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

- Quốc hữu hóa và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với các xí nghiệp công quản và xí nghiệp tư nhân.

- Hợp tác hóa toàn bộ nông nghiệp.

- Đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh.

- Giải thể MTDTGPMNVN và chính phủ của mặt trận.

- Đổi tên đảng Lao động thành đảng Cộng sản Việt Nam, lập quốc hội mới và đặt quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).

Song song, lãnh đạo đảng CSVN áp dụng những biện pháp kinh tế, chính trị rập khuôn theo mô hình Trung Quốc và Liên Xô lại càng đưa đất nước vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng hơn. Nạn nghèo đói và khủng bố bắt bớ diễn ra khắp nơi đã làm cho người dân miền Nam luôn sống trong lo sợ và tuyệt vọng. Đó là lý do cho gần 2 triệu người phải vượt biên ra đi.

Trong suốt 20 năm nội chiến hay còn được quốc tế gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, dân tộc đã phải trả giá quá cao cho chiến thắng của đảng Cộng sản: 2 triệu quân nhân hai miền thiệt mạng trên chiến trường và 300.000 người mất tích, từ 4 đến 5 triệu thường dân tử vong vì bom đạn. Hơn một triệu góa phụ, trên 900.000 trẻ em mồ côi. Các cơ sở hạ tầng bị phá hủy, đồng ruộng và thiên nhiên bị nhiễm độc. Phí tổn cho cuộc chiến đầy tang thương này ước chừng 167 tỷ đôla.

Hòa bình chưa lâu Việt Nam lại bước vào hai cuộc chiến tranh mới với hai quốc gia Cộng sản anh em Trung Quốc và Cam Bốt.



Đức: Thống nhất đất nước bằng thương thảo và ngoại giao

Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt (5-1945), nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta (411-2-1945) và Postdam (17-72-8-1945), do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, AnhPháp) kiểm soát và quản lý. Berlin cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông (Xã hội chủ nghĩa) và Tây (Tư bản chủ nghĩa) cũng đã bắt đầu trên nhiều phương diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa hai phe.



Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít và bị người dân Cộng hòa Liên bang Đức gọi là “Bức tường ô nhục là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13-8-1961 đến ngày 9-11-1989. Trong những năm từ 1949 đến 1961 đã có khoảng 3 triệu người dân rời bỏ nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhằm ngăn chận việc này, nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã khóa ranh giới với Tây Berlin bằng cách xây Bức tường Berlin.

Cộng hòa liên bang Đức

23-5-1949 Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập từ 3 khu vực chiếm đóng của Anh, Mỹ và Pháp, lấy thảnh phố Bonn làm thủ đô.

Cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang Đức đầu tiên được tiến hành vào ngày 14-8-1949. Konrad Adenauer của Liên minh Dân chủ Ki-tô giáo Đức (CDU) được bầu làm Thủ tướng Liên bang Đức. Chính quyền Adenauer chú tâm phát triển nền kinh tế thị trường xã hội, đẩy mạnh việc hội nhập phương Tây qua việc gia nhập khối NATO, đồng thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu sau này cũng như thành lập quân đội liên bang. Đối với Đông Đức, Tây Đức khẳng định quyền đơn phương đại diện cho nước Đức và cắt đứt quan hệ với các quốc gia công nhận nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Thuyết Hallstein). Mặc dù vậy Adenauer cũng đã ký kết một hiệp định với Liên bang Xô viết vào năm 1955 để đưa tù binh chiến tranh Đức hồi hương.

Adenauer từ chức vào ngày 15-10-1963. Những người kế nhiệm như Ludwig Erhard, Kurt Georg Kiesinger tiếp tục đường lối nội, ngoại trước đây của Adenauer. Trong tháng 10-1969 sau cuộc bầu cử Quốc hội, đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) và đảng Dân chủ Tự do Đức (FDP) thành lập chính quyền liên hiệp dưới quyền của Thủ tướng Willy Brandt. Brandt công bố Ostpolitik, một chính sách chủ trương tiếp cận và đối thoại với các nước thuộc khối Đông thay thế cho học thuyết Hallstein. Ostpolitik được đưa ra nhằm cải thiện quan hệ với Đông Đức, Ba Lan và Liên bang Xô viết. Chính sách này của Brandt đã gây ra tranh cãi tại Tây Đức nhưng lại giúp ông giành được giải Nobel hòa bình năm 1971. Willy Brandt từ chức nhượng quyền cho Helmut Schmidt sau vụ khám phá ra người tùy viên thân cận của ông, Günter Guillaume, là một điệp viên Đông Đức. Rồi Helmut Kohl trở thành thủ tướng năm 1982. Kohl tiếp tục chích sách hòa hoãn Đông–Tây của Brandt khi đón tiếp Chủ tịch nhả nước Đông Đức Erich Honecker lần đầu tiên tới Tây Đức vào năm 1987. Sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989, việc giải quyết các vấn đề Đông Đức của Kohl đã trở thành điểm mấu chốt trong thời kỳ cầm quyền của ông. Tận dụng ưu thế những thay đổi chính trị mang tính lịch sử đang xảy ra ở Đông Đức, Kohl đã thương thảo thành công với Tứ cường cho tiến trình thống nhất nước Đức. Ông làm thủ tướng lâu hơn những người đi trước và được coi là thủ tướng thống nhất.



Cộng hòa Dân chủ Đức

Nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được ra đời từ khu vực chiếm đóng của Liên Xô vào ngày 7-10-1949 và thủ đô là Đông Bá Linh.

Trong Quốc hội mới được thành lập, Wilhelm Pieck là Chủ tịch nước và Otto Grotewohl là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Cho đến năm 1971 Walter Ulbricht với cương vị là Tổng bí thư của đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, nắm giữ quyền lực quyết định trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức...

Tháng 5-1953 đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức quyết định tăng chỉ tiêu lao động, việc đã gây ra nhiều chống đối và đã dẫn đến cuộc nổi dậy của quần chúng vào ngày 17 tháng 6.

Tháng 5-1971 Walter Ulbricht bị tước quyền lực, Erich Honecker trở thành người kế nhiệm chức vụ Tổng bí thư đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức.

Hai nước Đông và Tây Đức gia nhập Liên Hiệp Quốc trong năm 1973. Tháng 5-1974 cơ quan đại diện thường trực của hai quốc gia Đức được thành lập tại Bonn và Đông Berlin. Hai quốc gia Đức ký kết Hiệp ước Helsinki vào ngày 1-8-1975.

Cuộc thay đổi chính quyền ở Liên Xô dẫn đến chính sách mở cửa và cách mạng các nước Đông Âu. Thêm vào đó, tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi và thất vọng không có cải cách chính trị đã dẫn đến nhiều cuộc biểu tình phản đối với rất nhiều người tham gia.

Vào ngày 18-10-1989 Honecker từ chức. Chỉ ít ngày sau đó toàn bộ chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức đều nối gót ông. Bức tường Berlin bị đập phá vào ngày 9-11. Cuộc phản kháng ôn hòa của nhân dân Đông Đức dưới hình thức các cuộc biểu tình vào ngày thứ Hai cuối cùng đã làm sụp đổ chính quyền nước Cộng hòa Dân chủ Đức.



Đức thống nhất trong hòa bình và tự do

Vào ngày 3-10-1990, dựa vào Hiệp ước Thống nhất (Đức), việc nước Cộng hòa Dân chủ Đức gia nhập vào nước Cộng hòa Liên bang Đức theo chương 23 Hiến pháp được hoàn thành. Và cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên sau khi tái thống nhất được tiến hành trong tháng 12-1990. Thành phố Bá Linh từ đây trở lại là thủ đô của cả nước.



Sau ngày thống nhất, chính quyền liên bang đã đưa ra nhiều chương trình phục hồi kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn lãnh thổ Đông Đức. Người dân Đông Đức đều được đối xử bình đẳng trên mọi phương diện, không phải trình diện học tập cải tạo, không phải lo sợ bị bắt bớ vì chính trị, không bị tước đoạt tài sản qua các vụ đổi tiền, không phải rời bỏ đất nước đi tị nạn... Sự thống nhất đất nước qua phương thức thương lượng và ngoại giao của Đức là một mô hình đáng được thế giới khen ngợi.



Lý do mất miền Nam vào tay Cộng sản đến bây giờ vẫn còn được tranh cãi, dù ai cũng thấy nguyên nhân chính là việc Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN. "Tiền đồn chống cộng" này không còn cần thiết nữa, sau khi Mỹ biết Trung Cộng vào thời gian đó không có ý định và chưa đủ khả năng nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Những sửa soạn cho việc Mỹ rút khỏi VN đã được thực hiện với chương tình Việt Nam hóa chiến tranh. Đến năm 1972, sau khi Cố vấn An ninh Kissinger và TT Nixon sang Tàu nói chuyện với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì ván bài đã được lật ngửa. Không đầy một năm sau, ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh VN được ký kết, với phần thua thiệt về phiá Nam VN, phần thắng lợi bất ngờ về phiá Bắc Việt, và Hoa Kỳ được "rút lui trong danh dự".

Cầm bản dự thảo Hiệp định đã được Mỹ và Bắc Việt phó thự (initial), Cố vấn Kissinger đi Sài Gòn bắt TT N.V.Thiệu ký. Nếu TT Thiệu ký ngay thì chẳng khác gì ký vào tờ khai tử của chính ông và của cả miền Nam. Bản dự thảo coi như chung quyết (final draft) này dự trù TT Thiệu phải từ chức liền, trao chính quyền cho Hội đồng Hòa giải Hòa hợp Dân tộc gồm 3 thành phần (Quốc, Cộng và thành phần thứ ba ở giữa). Hội đồng sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu lên một chính quyền mới cai trị miền Nam. Một điều khoản khác vô cùng tai hại là trong khi các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và của các nước đồng minh (Đại Hàn, Úc, Thái, Philippin) phải rút đi thì những đơn vị quân đội chính qui của Bắc Việt vẫn được quyền ở lại miền Nam. 

Dĩ nhiên TT Thiệu, Quốc hội và chính phủ VNCH phản đối. Kissinger không thành công trong việc thuyết phục TT Thiệu. Ông ta giận dữ ra về và thề không trở lại Sài Gòn nữa. TT Nixon phải cử tướng Alexander Haig, Tổng Quản trị (Chief of staff) Phủ Tổng thống, qua Sài Gòn điều đình và làm áp lực tiếp. Cuối cùng Mỹ cũng phải thỏa hiệp không đòi TT Thiệu từ chức, không thay thế chính quyền miền Nam bằng Hội đồng Hòa giải Hòa hợp Dân tộc, nhưng giữ nguyên điều khoản không buộc quân đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam, vì sợ Cộng sản sẽ không nhượng bộ điều này. Kissinger phải đi điều đình lại với Lê Đức Thọ. Phiá Cộng sản không chịu sửa đổi bản thảo Hiệp định, Mỹ phải dội bom Hà Nội và phong tỏa hải cảng Hải Phòng vào những ngày cuối năm 1972 để làm áp lực. Cuối cùng Hà Nội cũng phải nhượng bộ nhưng vẫn còn lời chán vì họ được giữ quân tại miền Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm chiếm. Thế là Hiệp định Paris được ký vào ngày 27-1-1973.

Để buộc TT Thiệu phải làm theo ý Hoa Kỳ, TT Nixon dùng chiến thuật vừa dỗ vừa dọa. Một mặt ông viết thư cho TT Thiệu hứa hẹn tiếp tục giúp đỡ VNCH, trừng phạt Cộng sản nếu vi phạm Hiệp định, một mặt ông chính thức hăm dọa "không muốn trường hợp TT Ngô Đình Diệm tái diễn" (Xem Palace Files và Khi Đồng minh tháo chạy của Nguyễn Tiến Hưng). Những tài liệu liên quan tới những lời TT Nixon nói về TT Thiệu đã được giải mật và lưu trữ tại Thư viện Nixon ở Yorba Linda, California, cho thấy Nixon rất giận dữ trước việc ông Thiệu chống đối những điều khoản căn bản của bản dự thảo Hiệp định. Cuốn băng ghi âm từ 1973 dài 150 giờ và viết lại thành 30,000 trang đã được giải mật và đã được ông Hughes, nhà chuyên môn nghiên cứu các băng ghi âm của các tổng thống Mỹ, tiết lộ Nixon đã từng nói trong một phiên họp tại Bạch Ốc về ông Thiệu: "Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của hắn nếu cần thiết" (cut off his head if necessary - Nguồn: BBCvietnam.com June 24, 2009). Dĩ nhiên, Nixon nói điều này trong lúc nóng giận nhưng cũng phản ảnh một phần sự thật. 

Chính tướng Alexander Haig cũng viết trong hồi ký là vào thời điểm đó, tên ông Thiệu thường được nhắc tới trong các cuộc thảo luận và có người đưa ý kiến ám sát ông Thiệu. Tướng Alexander Haig viết thêm: "Nixon rất mong muốn giải quyết chuyện Việt Nam cho xong và chia sẻ sự bực bội và tức giận như núi lửa của Kissinger đối với người đồng minh cứng đầu này (ám chỉ ông Thiệu) đã gây trở ngại lớn nhất cho ông trong việc kết thúc cuộc chiến" (1).

Dọa nhau như thế, nhưng Mỹ đã không dám làm, vì không dại gì gây chuyện rắc rối mới khi sắp đến cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của TT Nixon. Vì vậy thầy trò Nixon phải thuyết phục VNCH bằng những hứa hẹn trừng phạt những vi phạm Hiệp định và tiếp tục viện trợ cho Nam VN. Khi tiếp ông Nguyễn Phú Đức, Phụ tá Ngoại giao của TT Thiệu tại tòa Bạch Ốc, TT Nixon đã hứa sống hứa chết (he repeated his bedrock assurance) là sẽ bỏ bom Bắc Việt một cách nặng nề nếu Bắc Việt vi phạm thỏa ước (2). Về phần Ngoại trưởng Henry Kissinger (nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao ngày 22-9-1973) cũng viết trong hồi ký rằng chính TT Nixon, Bộ trưởng Quốc phòng và các giới chức cao cấp của Mỹ đều xác nhận nhiều lần với ông Thiệu là chính phủ Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt phải tôn trọng Hiệp định (3). Hứa như vậy chỉ là để ông Thiệu yên tâm ký một hiệp ước bất lợi. 

Thực tế, Mỹ chỉ muốn chấm dứt chiến tranh "trong danh dự", có nghiã là lấy được tù binh về, rút chân khỏi vũng lầy VN, mặc cho Nam VN rơi vào tay Cộng sản, trong một "khoảng thời gian coi được" (decent interval). Vì thế Hành pháp bầy trò đề nghị Lập pháp viện trợ cho Nam VN 700 triệu đô-la. Lập pháp lờ đi. TT Gerard Ford lại yêu cầu viện trợ khẩn cấp 300 triệu. Quốc hội lấy cớ nghỉ hè, không thể triệu tập phiên họp cứu xét. Một khi người ta đã quyết tâm bỏ cho chết luôn, làm sao có thể cho tiền để sống lay lứt thêm một thời gian nữa?

Sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản, ông đạo diễn phù thủ Kissinger mới viết vuốt đuôi "Lúc này tôi nghĩ tới một ông tướng VN nhỏ bé, một người yêu nước". Ở một đoạn khác, ông viết: "Tôi có rất ít tình bạn cá nhân với ông Thiệu, nhưng nhìn ông theo đuổi cuộc chiến đấu một cách cô độc sau khi người Mỹ rút lui, tôi thấy mến phục ông ấy rất nhiều. Ông ít được thương hại, cũng cũng không được nhiều người hiểu, nhưng những điều đó không ảnh hưởng gì tới nhân cách của ông" (4).

Đúng là những lời ai điếu để an ủi. Chính Kissinger đã tiên đoán với Nixon là sau 2 năm ký Hiệp định Paris, miền Nam VN sẽ sụp đổ. Các chính khách có thói quen chỉ đấm ngực nhận lỗi sau khi rời chức vụ. Về trường hợp Việt Nam, cựu Tổng thống Richard Nixon viết cả một cuốn sách rút những kinh nghiệm sai lầm, No More Vietnams. Cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger viết hồi ký có những đoạn xoa vuốt Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gần đây đã chính thức xin lỗi về những sai lầm của mình. Ông còn xác nhận trong khi Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam thì khối Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ các tiếp liệu cho Bắc Việt. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird nói rằng các khoản viện trợ Mỹ dành cho VNCH đã bị cắt theo yêu cầu của các thế lực chính trị Mỹ, đưa tới kết qủa chung cuộc là chế độ miền Nam VN thua trận vào ngày 30-4-1975 (VOA 2-7-2007).

Khi nhìn thấy vấn đề thì đã trễ. Nhưng khi tại chức, họ chỉ nghĩ tới quyền lợi của nước họ, tới ghế ngồi và danh dự của cá nhân họ. Một tay cầm súng, một tay cầm túi đôla, họ cứ bước lên đầu người khác mà đi. Vì vậy, chúng ta phải nhớ, trong trường chính trị, không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Lý tưởng còn thay đổi huống chi chính sách. Khi nhu cầu đòi hỏi, họ có thể xoay đổi chính sách 180 độ, bất kể bao nhiêu tiền bạc và xương máu đã đổ ra. Tiền và mạng người được coi là những chi phí cần thiết cho một giai đoạn với một chính sách giai đoạn. Lúc phải tiêu là tiêu. Tiêu rồi không tiếc.

Dù quy trách nhiệm lớn nhất cho Hoa Kỳ trong việc mất miền Nam, chúng ta cũng phải tự nhận lỗi về những khuyết điểm của mình. Những tính toán sai của các lãnh đạo quân sự và dân sự, nạn tham nhũng, lính ma lính kiểng, hối mại quyền thế... đều có xảy ra dù không ở mức độ trầm trọng như dưới chế độ Cộng sản. Không thể chấp nhận những tệ nạn này nhưng chúng không làm mất nước khi ở một mức độ thấp. Dân miền Nam vẫn sống no đủ, tự do, xây dựng hiện tại và tương lai với đà tiến triển không ngừng. 

Tội nặng nhất phải quy vào những kẻ chỉ biết vụ lợi, những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản". Họ là những con buôn bán lén gạo và thuốc tây cho Cộng sản với giá cao. Họ là những người hướng về rừng với hoài cảm thời Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Họ là những trí thức viễn mơ đề cao giá trị dân tộc và chống sự hiện diện của người ngoại quốc trên đất nước. Họ lý luận rằng Cộng sản hay quốc gia đều là người Việt, chắc không xử tệ với nhau như người ngoại chủng xử với dân mình. Từ đó, họ chống đối chính quyền quốc gia, gán cho mọi thứ xấu và sẵn sàng nghe theo những lời dụ dỗ của những cán bộ CS nằm vùng. Họ là những người trẻ bị đàn anh phỉnh gạt bằng những lý luận sai lầm. 

Cuối cùng, họ là những người lãnh đạo tinh thần của một số tôn giáo đã vô tình hay hữu ý lẫn lộn chuyện đạo với chuyện đời, không phân biệt đấu tranh cho công lý với đấu tranh chính trị để lật đổ một chế độ hợp pháp, chưa kể một số tu sĩ là Cộng sản nằm vùng khéo ngụy trang. Để cai trị một xã hội bị lũng đoạn như thế, chính quyền vẫn phải áp dụng những nguyên tắc dân chủ, hơi mạnh tay là bị kết án đàn áp, sửa đổi luật lệ cho hữu hiệu thì bị kết án độc tài. Có bàn tay Cộng sản nhúng vào mọi chỗ mà nhiều người không biết, cứ tưởng mình đang tranh đấu cho hòa bình, tự do và quyền lợi của dân tộc. Chính những người như vậy đã tiếp tay cho Cộng sản mau chiếm miền Nam. 

Mất rồi mới tiếc. Mắt mở ra mới thấy mình lầm. Trong khi dân trong nước đang đấu tranh gian khổ để đòi lại những quyền công dân và quyền con người đã bị cướp mất, đang vật vã đòi lại và giữ gìn những phần biển, đảo mà ông cha để lại, chúng ta ở hải ngoại đang làm gì? Còn bao nhiêu người nghĩ tới quê hương? Có bao nhiêu người dấn thân trong những hành động tranh đấu đòi công lý và nhân quyền cho anh em ruột thịt trong nước? Hay đa số chúng ta vẫn thờ ơ, coi đó là việc của người khác? Có người còn tiếp tay cho những kẻ cầm quyền bán nước và hà hiếp dân dù chính họ đã từng là nạn nhân.

May mắn thay, vẫn còn nhiều người âm thầm tranh đấu, hay ít ra cũng âm thầm góp công góp của để yểm trợ những người tranh đấu. Họ thuộc đa số thầm lặng, chỉ lên tiếng khi cần. Vì sống trong những xã hội tự do, các đoàn thể của người Việt đua nở như nấm gặp mưa. Có những đoàn thể tốt nhưng cũng có những đoàn thể hữu danh vô thực, thùng rỗng kêu to. Có những người tốt nhưng cũng có những người chỉ thích danh lợi, thích làm lãnh tụ, mới làm chủ tịch một hội nhỏ xíu đã mơ và cư xử như một thủ tướng, bộ trưởng, dân biểu tương lai. Do đó sự đố kỵ và chia rẽ gia tăng, cộng thêm những bàn tay bí mật của CS và tay sai nhúng vào quậy phá các cộng đồng. 

Trước những tệ nạn trước mắt, chúng ta vẫn không thất vọng khi thấy sau 39 năm, Cộng sản vẫn chưa chiếm được một cộng đồng người Việt nào ở hải ngoại, chưa đưa được khối người Việt hải ngoại vào vòng chi phối và thần phục nhà đương quyền Hà Nội, dù Cộng sản đã tốn bao công sức và tiền bạc để thi hành Nghị quyết 36.

  Kỷ niệm 39 năm miền Nam bị đặt dưới chế độ Cộng sản, chúng ta cần thay đổi phương cách hành động. Chúng ta nên ý thức rằng việc trực diện đấu tranh với Cộng sản phải là việc của người trong nước, người ở ngoài chỉ có thể yểm trợ tinh thần, ngoại vận và phương tiện. Chúng ta không nên phí tiền bạc vào những việc phô trương bề ngoài. 



Hãy dồn phương tiện giúp anh chị em trong nước. Khi tranh đấu trong thời đại điện tử và thông tin nhanh chóng như hiện nay, họ cần phải có máy hình, điện thoại di động, computer... Khi ốm đau hoặc khi bị bắt vào tù, họ cần được tiếp tế lương thực và thuốc men, chưa kể những hoạt động khác đòi hỏi nhiều phương tiện hơn. Các đoàn thể ở hải ngoại nên phối hợp trong việc phân phối sự yểm trợ cho trong nước để tránh tình trạng chỗ ít qúa, chỗ nhiều qúa. Hãy tạo thêm những đường dây liên lạc mới, tìm kiếm thêm những người dấn thân mới và giúp đỡ họ. Nếu làm được như thế, đồng bào trong nước sẽ lên tinh thần và phong trào tranh đấu có cơ lớn mạnh nhanh chóng vì có sự yểm trợ cụ thể và hữu ích của đồng bào ngoài nước.

Mong rằng ngày 30-4 năm tới,  chúng ta sẽ có một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam hiện nay.



Chú thích

(1) Alexander M. Haig, Jr., Inner Circle, tr 307, Warner Books, New York 1992. (2) Alexander Haig, sách đã dẫn, tr 306. (3) Henry Kissinger, Les Années Orageuses, tr 355, Fayard, France 1982. (4) Henry Kissinger, sách đã dẫn, tr 365

 

Điều giống nhau “ngẫu nhiên” thứ 11 của bộ ba “lãnh tụ con”

Nếu viết lại bài 10 điều giống nhau “ngẫu nhiên” của bộ ba lãnh tụ con Đồng-Chinh-Giáp (1) tôi sẽ phải bổ sung điều giống nhau “ngẫu nhiên” thứ 11 của họ mà có lẽ ai cũng thấy rõ nhưng lần trước tôi đã không thấy và không nêu được ra. Đó là, tuy là đệ tử ruột của đệ tử ruột, tức là con của con của lãnh tụ “khủng” Mao và Trung Cộng, và tuy cả đời chỉ làm mọi việc thần phục chủ nhân và cha cố nội mình chính là Trung Cộng, giống hệt “lãnh tụ cha” của mình là Hồ Chí Minh, thì bộ ba lãnh tụ con Đông-Nguyên-Giáp vẫn bị “ông nội mình” là Trung Cộng luôn coi thường và công khai sỉ nhục!

Ví dụ gần đây nhất ai cũng biết: ngay cả khi đã chết ở tuổi đại thượng thọ năm 2013 và được dân Việt “phong thánh”, Võ Nguyên Giáp vẫn bị “ông nội” Trung Cộng hạ nhục bằng cách bắt CSVN phải hạ cờ quốc tang Giáp vì thủ tướng Trung Cộng cố tình sang “thăm hữu nghị” VN - như để chửi cha CSVN và Võ Nguyên Giáp vậy. Thế mà, cả cái đảng CSVN hơn ba triệu kẻ “đỉnh cao lạc loài” đó vẫn nuốt trôi được cục phân nhục nhã đó ngon ơ để kính cẩn đón chào quan tể tướng từ cố “đại quốc cha” của họ, nhưng không biết “lãnh tụ con huyền thoại” Võ Nguyên Giáp vừa vào nằm trong mộ đã nuốt trôi miếng nhục đó hay chưa?

Hay, ví dụ như vị tể tướng lâu đời nhất Việt Nam là “lãnh tụ con” - “anh Tô” không biết có “ăn tô” há cảo nào được không khi dẫn đầu đoàn vua con CSVN sang tận Thành Đô khấu đầu chịu tội và thần phục Bắc triều, thế mà anh Tô vẫn không được diện kiến cụ Đặng, và có lẽ suốt 10 năm sau đó đến chết anh Tô vẫn còn thấy nhục?

Còn “lãnh tụ con” Trường Chinh dù có công tổ chức đón lãnh tụ cha về Việt Nam và ba lần làm Tổng Bí thư của CSVN mà vẫn không bao giờ được Trung Cộng nhắc đến hay mời sang chầu! Tại sao thế? Thậm chí, hai năm trước lễ qui hàng ở Thành Đô, lãnh tụ con Trường Chinh còn bị “chết bất ngờ vì tai nạn”, nên không được sang Thành Đô cùng anh Tô cúi lạy các ông chủ phương Bắc của mình! Có phải vì Trường Chinh là người duy nhất trong bộ ba “lãnh tụ con” về cuối đời đã cảm nhận ra tội lỗi của mình lẫn CSVN và không muốn thần phục Trung Cộng, như Bộ trưởng ngoại giao Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Cơ Thạch, nên đã phải chết vì “tai nạn bất ngờ” sớm nhất?

Tóm lại là, cả ba “lãnh tụ con” đều cùng rất vô duyên với tổ cha mình là Trung Cộng và đã bị Trung Cộng khinh bạc suốt đời, tại sao vậy?

10 tội ác lớn nhất của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp

Suy nghĩ về câu hỏi trên khiến tôi phải rà lại công tội của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp, điều mà tôi nghĩ mình khó đủ sức làm, sẽ khiến tôi sẽ phải cố hết sức cũng như dành nhiều thời gian thu thập thông tin và suy xét cẩn trọng, toàn diện. Kết quả là, tôi thấy họ - bộ ba ‘lãnh tụ con” đó đã lập được rất nhiều công lớn cho Trung Cộng (dù/và đồng thời mắc rất nhiều tội ác lớn không bao giờ có thể được tha thứ với dân tộc VN), lẽ ra họ phải được Trung Cộng tôn vinh và ghi công thay vì khinh khi bạc đãi!



Câu trả lời chỉ có thể là vì họ là người Việt mà cam tâm làm mọi điều có hại cho dân tộc Việt thì ngay cả người hưởng lợi từ đó và từ họ là CS Tàu vẫn cứ coi khinh họ! Chỉ có người Tàu làm lợi cho Tàu, như “lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh chẳng hạn, mới được người Tàu hay Trung Cộng coi là... hảo Hán, và trọng đãi (như HCM)! Còn Việt gian thì với ai và bao giờ cũng sẽ vẫn là Việt gian!

Tôi cũng đã nghĩ đến điều giống nhau thứ 12 của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp, đó là năm 1940 cái gì đã gắn kết họ với nhau để đến với và gắn kết với và thần phục theo Hồ Chí Minh như vậy? Đó là lý tưởng Cộng sản ư? Đảng viên CS nào cũng phải có “lý tưởng CS” mà, đâu chỉ riêng họ? Theo tôi, đó là cả ba đều là những kẻ hoang tưởng nhưng lại ôm mộng kinh bang tế thế tức muốn làm lãnh tụ quốc gia. Điều này thể hiện rất rõ qua tính cách ngông cuồng của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, nhưng ở Phạm Văn Đồng thì có vẻ kín đáo hơn (vì tài năng ít ỏi hơn chăng?). Nhưng tôi lại nghĩ đại đa số “lãnh tụ” CSVN khác có ai là không ôm mộng làm đế vương như thế? Chả thế mà việc họ chăm lo hàng đầu trong đảng CS là theo dõi và hãm hại nhau để trèo lên đầu, lên xác nhau mà... làm cách mạng. Thế cho nên, hãy dừng lại ở điều giống nhau “ngẫu nhiên” thứ 11 của họ hay thêm điều thứ 12 cũng không sao...

Trở lại với những tội ác lớn nhất của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp với dân tộc Việt Nam, đó là gì? Đó là câu hỏi lớn mà ở đây tôi xin đưa ra một câu trả lời đầu tiên của mình. Có lẽ nhiều người sẽ có những “đáp án” khác nhau, nhưng tôi tin đáp án cuối cùng vẫn là: vì họ có rất nhiều tội ác lớn với dân nước Việt nên họ mới trở thành bộ ba “lãnh tụ con” thân tín nhất xung quanh “lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh - vốn chồng chất tội ác lớn với dân tộc Việt của họ.

Với bài này tôi xin chỉ nói về/đưa ra 10 tội ác lớn nhất, theo tôi, của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp đối với dân tộc Việt, được chia khá đều cho cả ba, nhưng trong đó, thật bất ngờ, anh Tô có vẻ khù khờ và “hiền lành” nhất lại là kẻ đã gây nhiều tội ác lớn nhất (bốn), trong khi Chinh và Giáp đều “ít” tội hơn một chút (“chỉ có” ba tội ác lớn trong tốp 10 của tôi sau đây thôi).

Ba (03) tội ác lớn nhất của “lãnh tụ con” Trường Chinh

Hãy bắt đầu từ ba tội ác lớn nhất của “lãnh tụ con” Trường Chinh, vì Trường Chinh là người trên danh nghĩa có chức vụ cao nhất và luôn là sếp của bộ ba này.



Tội ác lớn đầu tiên của Trường Chinh chính là việc năm 1940 đã “có công” tổ chức cho Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng đi đón và đưa Hồ Chí Minh về nước. Với một sai lầm đã trở thành tội ác bắt đầu của mọi tội ác của CSVN đối với dân tộc Việt của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp và cả đảng CSVN này, Trường Chinh và CSVN đã ghi tên vào lịch sử dân tộc với vết nhơ khôn rửa, nhơ hơn mọi vết nhơ Lê Chiêu Thống hay Trần Ích Tắc hay Nguyễn Ánh, nếu có... Điều này sẽ là rõ ràng khi chỉ ít năm nữa thôi trong đầu thế kỷ 21 này, chính đảng CSVN sẽ phải thú nhận Hồ Chí Minh là gián điệp Tàu. Bây giờ, khi dù chưa chứng minh được Hồ Chí Minh là ai, việc đưa Hồ Chí Minh về nước 1940 vẫn đã rõ là đã làm hỏng mọi cơ hội đi đến độc lập và dân chủ đích thực cho dân tộc Việt. Vì thế, đây là tội ác lớn nhất đầu tiên, của Trường Chinh và bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp, cũng là của cả đảng CSVN.

Tội ác lớn thứ hai của Trường Chinh là đã đóng vai chính trong vở đại kịch siêu lừa đảo của CSVN đối với dân tộc VN trước khi đảng CSVN chính thức và thực sự lộ nguyên hình kẻ cướp và ác thú đối với dân tộc Việt Nam. Đó là, ngay trước khi kêu gọi toàn dân tham gia giành và xây dựng chính quyền dân chủ cộng hòa tháng Tám 1945, đảng CS Đông Dương mà Trường Chinh là Tổng bí thư đã tự tuyên bố “tự giải tán” và trở thành “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông dương” và Trường Chinh là “Hội trưởng”. Thực chất đảng CS từ đó đã trở thành tổ chức khủng bố có vũ trang trong bóng tối đứng sau Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... và hàng vạn đảng viên tham gia chính quyền Việt Minh của họ lúc đó, để giúp những kẻ trong chính quyền như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thủ tiêu các đối thủ chính trị nội bộ nhưng khác đảng phái, cùng tham gia chính quyền Việt Minh với họ. Trường Chinh đã đóng vai “Hội trưởng” như thế suốt 5 năm, đến 1950, khi việc thôn tính mọi đối thủ chính trị nội bộ của CSVN đã hoàn tất, CSVN đã hoàn toàn cầm quyền trên toàn cõi VN, việc lừa dối giả “ta không phải Cộng sản” là không cần thiết nữa, họ mới lại “ra ánh sáng” vỗ ngực ta là Cộng sản nhưng với tên mới là đảng Lao động Việt Nam mà Trường Chinh tiếp tục là Tổng bí thư (sau Đại hội II năm 1951).

Đây là một cú lừa thế kỷ của cả một đảng hàng triệu đảng viên “đồng lòng” lừa đảo cả một dân tộc của chính họ. Và dân tộc Việt ngây thơ đã tin và theo họ vì hàng trăm hàng nghìn năm khát khao độc lập tự do, để rồi bị lừa và không thể thoát ra suốt hơn nửa thế kỷ tiếp sau, cho đến tận hôm nay, đã 69 năm rồi... Dù Trường Chinh không phải kẻ chủ mưu chính và duy nhất của cuộc lừa vĩ đại đó (mà có lẽ là Hồ Chí Minh và Trung Cộng) nhưng đã cam tâm đóng vai diễn viên chính trên sân khấu lừa đảo khổng lồ hình chữ S này một cách chủ động và có ý thức nhất suốt 5 năm, nên tôi phải khép tội này cho ông ta, ở đây.



Và tội ác lớn thứ ba của “lãnh tụ con” Trường Chinh, ai cũng biết, đó là đã viết Vấn đề dân cầy (chép dịch lại của LX và TQ) rồi đảm nhận tổ chức và thực hiện cuộc Cải cách ruộng đất “long trời lở đất” theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Trung Cộng từ 1953 đến 1956, đã tàn sát hàng trăm ngàn người nông dân và chí sĩ ưu tú của Việt Nam. Với và sau tội ác này, đảng CSVN và Hồ Chí Minh đã tổ chức một màn kịch nho nhỏ nữa để lừa bịp dân Việt tiếp hòng để chạy tội là “Sửa sai CCRĐ” và Trường Chinh đã “xin từ chức TBT”, còn HCM lấy khăn tay lau nước mắt “khóc” trước Hội nghị “sửa sai” đó. Họ chỉ đóng kịch thế thôi, vì 4 năm sau Hồ Chí Minh lại đưa Trường Chinh vào TW đảng rồi vào BCT, để rồi sau đó năm 1986 khi Lê Duẩn chết, CSVN lại đưa Trường Chinh trở lại ghế TBT lần thứ ba... Chỉ có một nửa dân tộc Việt sau cuộc tàn sát CCRĐ đó của họ đã phải “tự nguyện” lùi vào cuộc sống kinh tế thời tiền sử - tức là “không có gì quí...” cả, ngoài mạng sống của dân cũng chỉ phụ thuộc vào “đạo đức của đảng” mà thôi.

Với ba tội ác tày trời như thế đối với dân tộc, nếu có gì “an ủi” cho Trường Chinh trước phán xét cuối cùng của Lịch sử, thì đó là ông ta có vẻ là kẻ duy nhất sau này có một động thái thức tỉnh và sửa sai duy nhất trong bộ ba “lãnh tụ con” Đông-Chinh-Giáp, dù vẫn chỉ là nửa vời, đó là năm 1986 khi nắm quyền Tổng bí thư trong vòng 5 tháng Trường Chinh đã chủ trương đổi mới kinh tế (và chỉ kinh tế thôi). Nhưng Trường Chinh đã chết năm 1988 trong bối cảnh “tai nạn bất ngờ” bí ẩn như đã nêu trên, có thể chính là vì ông ta đã muốn tiếp tục đổi mới cả thể chế chính trị nữa như các nước Đông Âu XHCN và Liên Xô cũ, chứ không phải đến Thành Đô thần phục Trung Cộng và siết lại thêm hệ thống độc tài đảng trị như CSVN theo Trung Cộng đã làm sau đó! Đây lại là một câu hỏi lớn khác về Trường Chinh và đảng CSVN còn để lại cho Lịch sử trả lời.



Bốn (04) tội ác lớn nhất của “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng

Như chúng ta biết, “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng có vẻ khù khờ và “hiền lành” hơn cả trong bộ ba “lãnh tụ con”. Thế mà, sau khi chỉ ra 10 tội ác lớn nhất của bộ ba này đối với dân tộc Việt Nam, có đến bốn tội ác lớn đã do Phạm Văn Đồng thực hiện, hơi bất ngờ với tôi trước khi tôi nghiên cứu đề tài này. Nhưng nghĩ lại thì đó là hợp lý, vì kẻ “khù khờ” tức kém tài hơn nếu muốn là “lãnh tụ con” thì phải thực hiện nhiều “công việc bẩn” cho “lãnh tụ cha” hơn, và cũng sẽ được khai thác nhiều hơn (vì dễ hơn). Và có lẽ đó chính là trường hợp của “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng với ba tội ác lớn đầu tiên của ông ta sau đây, còn tội ác lớn thứ tư của ông ta là làm theo quán tính, là đã đâm lao thì phải theo lao, không cần “lãnh tụ cha” chỉ đạo, vì “lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh lúc đó đã “đi báo cáo” tình hình cách mạng thế giới với Mác Lê rồi, hay là chủ đích của cá nhân ông ta?



Tội ác lớn đầu tiên của “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng là năm 1946 được Hồ Chí Minh bất ngờ phong chức Bộ trưởng Ngoại giao thay Nguyễn Tường Tam (thực chất là các lực lượng vũ trang khủng bố trong bóng tối của Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh đã uy hiếp và làm cho ông Nguyễn Tường Tam cũng như nhiều người khác không thể hợp tác với CS, phải từ bỏ chức vụ trong Chính phủ liên minh để CS chiếm lấy), rồi được làm trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Fontai-nebleau mà ở đó, theo lệnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã ký hiệp định hòa hoãn với Pháp chỉ để CS có điều kiện và thời gian tiêu diệt tất cả các lực lượng dân tộc dân chủ trong nước không thân CS khác (chính bằng các lực lượng vũ trang khủng bố trong bóng tối của Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh). Với công trạng này, “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng được Hồ Chí Minh cho vào TƯ “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông dương” và lên Phó TTg từ 1949

Tội ác lớn thứ hai của Phạm Văn Đồng là năm 1954 lại được Hồ Chí Minh cử làm trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Genève, mà ở đó PVĐ đã theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ký kết hiệp định chia đôi đất nước VN tại vĩ tuyến 17 trên sông Bến Hải... Từ đó, để nối lại hai miền đất nước, dân tộc Việt Nam đã và còn đang phải trả giá bằng nhiều triệu sinh mạng suốt cuộc nội chiến tàn khốc mãi đến 1975 mà dân tộc vẫn bị phân ly cho đến hôm nay, 40 năm sau đó, và còn chưa biết đến bao giờ vết thương đó của dân tộc Việt mới lành đi bằng Hòa giải và Hòa hợp dân tộc! Nếu tội ác thứ nhất của Phạm Văn Đồng là vô cùng hại dân Việt, thì tội ác thứ hai này là vô cùng hại nước Việt...

Tội ác lớn thứ ba của Phạm Văn Đồng là một tội ác bán nước Việt, đó là năm 1958 “lãnh tụ con” này đã ký (theo chỉ thị “giấu mặt” của “lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh) công hàm ngày 14-9-1958 công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng hải phận Việt Nam là của Trung Cộng. Có lẽ HCM đã nuôi dậy kẻ khù khờ dễ bảo Phạm Văn Đồng ở cương vị cao vót “lãnh tụ con” -Thủ tướng chính phủ VNDCH bao nhiêu đó năm là để dùng kẻ ngu đó vào những việc bán nước mình (với Hồ Chí Minh là cướp nước Việt cho Tàu) như thế... Tội ác này của thầy trò HCM/PVĐ hôm nay đã biến thành “lợi ích cốt lõi” của Trung Cộng trên Biển Đông với “lưỡi bò chín đoạn” của chúng... mà dân tộc Việt Nam không biết đến bao giờ mới đòi lại được và có bao giờ đòi lại được?!

Và tội ác lớn, thứ tư của Phạm Văn Đồng là tội ác bán nước tiếp theo nữa mà “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng tự nguyện làm, không theo chỉ đạo của “lãnh tụ cha” nữa. Đó là, năm 1990, 50 năm sau ngày “theo cha”, “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng đã dẫn đầu đoàn chóp bu CSVN sang khấu đầu chịu tội trước Trung Cộng và xin bán nước Việt làm một tỉnh Tàu, xin theo Trung Cộng hoàn toàn từ đó. “Lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh lúc đó dù đã nằm khô trong mộ đá khổng lồ ở Hà Nội hơn 20 năm hay ở đâu đó vi vu với Mác với Lê, chắc đã vô cùng sung sướng vì các con cháu và đệ tử của mình không cần chỉ đạo mà vẫn đã tự nguyện theo về chầu Bắc quốc tổ của sư phụ! Còn dân tộc Việt thì coi như từ 1990 đã bị CSVN dẫn đầu là “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng đi chầu phương Bắc đưa vào tròng Bắc thuộc một lần nữa, sau hàng nghìn năm bao thế hệ Việt đã vùng lên giành độc lập, từ thời Hai Bà Trưng đến nay - dân tộc đã có những nền độc lập quật cường Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn…

Ba (03) tội ác lớn nhất của “lãnh tụ con” Võ Nguyên Giáp

Em út trong bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp là Võ Nguyên Giáp, là kẻ ngông cuồng và bị tâm thần về bản thân, tự coi mình như và hơn cả Napoléon Bonaparte, cũng đóng góp ba tội ác lớn trong danh sách top 10 tội ác của họ.



Tội ác lớn thứ nhất của “lãnh tụ con” Võ Nguyên Giáp là ngay từ 1940 đã ra tay triệt hạ gián tiếp tất cả các lực lượng vũ trang kháng chiến đã có từ trước (như Cứu quốc quân, Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn...) khi “lãnh tụ cha” vào đất Việt Nam, thay vì củng cố và phát triển các lực lượng đó. Đồng thời, cũng trong khoảng từ 1940 đến 1945, hàng loạt các vị tướng tá bậc thày và đàn anh của Võ Nguyên Giáp đã “không may và đáng tiếc” bị quân Pháp phục kích và tiêu diệt hết như Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri... Mãi đến cuối năm 1944 (22-12-1944) VNG mới được lệnh Hồ Chí Minh thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân để đợi sự hỗ trợ của Trung Cộng. Việc gọi là “thành lập các lực lượng vũ trang tiền thân của quân đội nhân dân VN” của Võ Nguyên Giáp/Hồ Chí Minh chỉ là diệt hay cướp quân của người khác sẵn có rồi sau đó mới tuyển người đưa sang Trung Cộng trang bị và đào tạo. Với công lao phá hoại và cướp bóc quân lực dân tộc này, năm 1945 Võ Nguyên Giáp đã được Hồ Chí Minh giao cho chức Bộ trưởng Nội vụ để nhận và thực hiện nhiệm vụ/tội ác tiếp theo.

Tội ác lớn thứ hai của “lãnh tụ con” Võ Nguyên Giáp là từ 1945 đến 1949 trên cương vị Bộ trưởng Nội vụ, Võ Nguyên Giáp đã thực hiện theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh việc hãm hại, thủ tiêu, tiêu diệt hầu hết các đảng phái, tổ chức, cá nhân, nhân sĩ, trí thức tiến bộ, các tổ chức văn hóa và tôn giáo... có tinh thần dân tộc dân chủ tham gia hay không tham gia Việt Minh và chính quyền liên minh nhưng không theo đường lối Cộng sản. Dưới tay Võ Nguyên Giáp và tay chân loại như đồ tể Trần Quốc Hoàn, hàng trăm ngàn người, có thể đến hàng triệu người con ưu tú không theo Cộng sản của dân tộc Việt Nam những năm 40s và 50s thế kỷ 20 đã bị hãm hại, thủ tiêu bí ẩn và tàn độc bằng mọi cách... mà hệ lụy của sự tàn sát đó còn để lại cho đến nay và nhiều thế hệ sau là dân tộc Việt Nam đã bị hầu như triệt gần hết giống nòi dân chủ tiến bộ, các thế hệ sau chủ yếu chỉ còn là ngu muội Cộng sản hoặc trí thức bị Cộng sản khống chế hoàn toàn... Đây là tội ác trời tru đất diệt của Võ Nguyên Giáp và CSVN, là tội ác như diệt chủng Polpot với dân tộc Campuchia, nhưng nó còn ghê tởm hơn vì nó được thực hiện trong bóng tối và chỉ với những người tinh hoa nhất của giống nòi, và nó vẫn chưa bao giờ được đưa ra ánh sáng. Đến gần đây, khi đã trên 100 tuổi và sắp chết, Võ Nguyên Giáp vẫn khăng khăng cho rằng đó (việc diệt chủng tinh hoa dân tộc Việt nhiều thế hệ tuổi 20 đến 60 vào những năm 40s/50s chỉ vì họ không là Cộng sản) là những việc làm cần thiết và có ích mang lại lợi cho cho đảng CSVN... (và cho cá nhân ông ta?).

Tội ác khủng khiếp này của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp đã mang lại rất nhiều, ít nhất ba lợi thế cho cá nhân Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cướp cờ cầm đầu lãnh đạo đảng CSVN của Hồ Chí Minh. 



Thứ nhất, Võ Nguyên Giáp và cả Trường Chinh, Phạm Văn Đồng đã giúp Hồ diệt mọi đối thủ chính trị tiềm năng của cá nhân Hồ Chí Minh, dọn đường cho Hồ Chí Minh một mình một cõi thống trị đảng CSVN.

Thứ hai, Đồng-Chinh-Giáp cũng tận diệt hết những kẻ đã biết Nguyễn Ái Quốc là ai và có thể nhận ra, chứng minh Hồ Chí Minh không phải Nguyễn Ái Quốc như Hồ Tùng Mậu hay Nguyễn An Ninh, Lê Hồng Phong hay Nguyễn thị Minh Khai hay Lâm Đức Thụ... 

Và thứ ba, Đồng-Chinh-Giáp đã giết hết giai cấp trí thức thực sự của Việt Nam trong và ngoài đảng CSVN để Trung Cộng và Hồ Chí Minh dễ dàng thao túng dư luận xã hội Việt Nam, dễ dàng biến Hồ Chí Minh thành lãnh tụ và "cha già dân tộc", thành "vị cứu tinh thánh sống" của dân tộc Việt, để Trung Cộng có thể làm hầu như bất cứ điều gì họ muốn với người Việt cũng được, ngay cả việc bắt người Việt tự nguyện dâng đất nước Việt cho Trung Cộng (như và đúng là Phạm Văn Đồng và đảng CSVN đã làm sau đó, năm 1990 ở Thành Đô).

Với công lao lớn như thế đối với Hồ Chí Minh thì chúng ta dễ hiểu vì sao Hồ Chí Minh và bộ máy tuyên truyền của đảng CSVN (thực chất do Hoa Nam điều khiển) đã tưởng thưởng cho bộ ba Đồng-Chinh-Giáp những vị trí cao nhất: Tổng bí thư đảng, Thủ tướng Chính phủ, Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang, và tâng bốc bộ ba đó lên tận mây xanh thành các “lãnh tụ con” “huyền thoại” xung quanh “lãnh tụ cha” Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh phong đại tướng lúc 37 tuổi vào năm 1948 khi chưa thực sự chỉ huy quân đội với trận đánh nào ngoài việc bỏ chạy cùng Hồ Chí Minh sang bên kia biên giới trong cái gọi là chiến dịch Việt Bắc. Chiến dịch đó thực chất là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp mượn tay quân Pháp diệt hết các thành phần dân tộc dân chủ đã theo chính phủ lên chiến khu Thái Nguyên “kháng chiến”. Ví dụ quân của Giáp tung tin đồn cụ Nguyễn Văn Tố chính là Hồ Chí Minh và cụ đang trụ ở chiến khu Thái Nguyên lãnh đạo quân dân chống Pháp, chỉ để Pháp dồn quân bắt và giết cụ, lợi cả đôi đường cho Cộng sản. Các ví dụ khác rất nhiều và nằm ngoài phạm vi bài viết này, đại đa số các lãnh đạo chính phủ kháng chiến nhưng không theo Cộng sản hoàn toàn đều được Hồ Chí Minh cử đi công tác các nơi mà Võ Nguyên Giáp là người truyền lệnh trực tiếp duy nhất để rồi đa số họ bị Pháp “vô tình và bất ngờ phát hiện”, tấn công và “bị hy sinh anh dũng”. Thường thì sau đó chính Hồ Chí Minh sẽ viết thư chia buồn về cho gia đình, thân nhân họ (!).




HHHG dân tộc là mục đích và muốn đến đích thì cần có kế hoạch và chương trình hành động cụ thể. Nếu có mục đích mà thiếu kế hoạch thì đó chỉ là ước mơ viển vong. Khi chúng ta muốn đi từ Sài Gòn ra Hà Nội thì chúng ta cần phải biết lộ trình là phải đi về hướng Bắc, nếu muốn đến Hà Nội mà đi hướng Đông hoặc hướng Tây là đi lạc. Vậy lộ trình đi đến HHHG dân tộc của CSVN là gì?

Ông Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn kêu gọi HHHG với người Việt hải ngoại, người dân trong nước không phải là mục tiêu của ông Sơn và đảng CSVN. Ở trong nước, CSVN dùng công an đánh đập, bỏ tù dân thì HHHG là không cần thiết. Vì sao đảng CSVN tha thiết HHHG với người Việt tỵ nạn CS mà CS gọi là Việt kiều? Câu trả lời là dollar và chỉ có thế. Dollar bao gồm kêu gọi Việt kiều mang tiền về đầu tư, ký hiệp ước thương mại với các nước tư bản mà không bị Việt kiều đặt điều kiện nhân quyền, xuất cảng hàng hóa từ VN, xuất cảng lao động, đi du lịch VN. CSVN chẳng cần chất xám của Việt kiều vì chất xám ở VN không thiếu, dư đến độ CSVN bắt bỏ tù những người có tài như Ks Trần Huỳnh Duy Thức, các Ls. Lê Quốc Quân, Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, Thạc sĩ Ng. Tiến Trung.

Tội ác lớn thứ ba của “lãnh tụ con” Võ Nguyên Giáp
 là đã đóng vai tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang và chỉ huy các (09) chiến dịch: từ Việt Bắc (cuối 1948), Biên Giới (cuối 1950), Đông Bắc (đầu 1951), Đồng Bằng (cuối 1951), Thượng Lào (1952)... đến Điện Biên Phủ (1954), hoàn toàn theo sự chỉ đạo nướng quân Việt Nam của các tướng cố vấn quân sự Trung Cộng là Lã Quí Ba, Trần Canh, Vi Quốc Thanh... chỉ để nhận danh tiếng về cá nhân mình - cá nhân Võ Nguyên Giáp. Trong vở kịch chiến tranh Đông Dương thật này, vai hề Võ Nguyên Giáp lại nhận toàn bộ vinh quang chiến thắng thật từ sự hy sinh của hàng triệu quân và dân Việt anh dũng chống Pháp trực diện... Đó chính là một tội ác lớn - tội ác cướp công và sỉ nhục hàng triệu anh hùng dân tộc Việt. Hàng triệu người đã đổ máu anh dũng cho một kẻ là “lãnh tụ con” Võ Nguyên Giáp được huyên hoang cho thỏa bệnh tâm thần từ bé về bản thân của mình. Trong vở đại hí kịch này, Hồ Chí Minh đã dùng Võ Nguyên Giáp chỉ vì ông ta sẽ nghe lệnh mình và các cố vấn quân sự Trung Cộng hoàn toàn, và vì ông ta không biết đánh trận thực sự lại hay tự hão huyền chính mình. Hãy xem trước trận Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh đã giao quyền cho Võ Nguyên Giáp đại ý như thế này: Chú Văn ra trận đợt này, tướng di tại ngoại, chú cứ tùy tình hình mà quyết nếu các đồng chí cố vấn đồng ý... (có nghĩa là: chú phải nghe lời các đồng chí cố vấn đấy nhé! Và chú Văn bao giờ cũng nghe lời “cha già”...)

Vài lời kết

Trong 10 tội ác lớn nhất của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp, tôi kinh tởm và căm ghét các tội ác của cặp thầy trò Võ Nguyên Giáp - Hồ Chí Minh nhất, dù có thể cả Trường Chinh và Phạm Văn Đồng cũng tham gia, vì số lượng nạn nhân của họ rất lớn, đa dạng và khắp nơi, vì nó luôn đẫm máu dân tộc Việt. Để hoàn tất các nhiệm vụ tội ác của Võ Nguyên Giáp, thầy trò họ đã phải làm việc này cơ bản mất 9 năm, từ 1941 đến 1949 mới tạm ổn, và đến 1958 -chín năm sau nữa- mới xong hoàn toàn. Khi đó Hồ Chí Minh mới chính thức và công khai nhận mình chính là Nguyễn Ái Quốc.

Trong phần liệt kê 10 tội ác lớn nhất của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp trên, khi tôi viết “Tội ác lớn thứ ba của lãnh tụ con Đồng-Chinh-Giáp... thì đó có nghĩa là “thứ ba” theo thứ tự thời gian mà tội ác đó đã được “lãnh tụ con” đó thực hiện, không phải thứ ba về độ lớn của tội ác của kẻ đó, điều tùy thuộc đánh giá của mỗi người và của thế hệ sau khi nhìn lại công tội họ.

Tội lớn nhất con người có thể phạm là tội bán nước, và tưởng như không ai có thể phạm tội đó hai lần (vì một lần đã khó mà thoát bị kết tội và trừng phạt) thì “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng đã phạm những hai lần, mà cả hai lần đều trời Việt không thể dung, đất và biển Việt không thể tha, người Việt không bao giờ tha thứ... Câu hỏi cảm thán của tôi ở đây là, liệu “lãnh tụ con” Phạm Văn Đồng có thực sự là người Việt hay không mà phạm những tội ác tày trần với dân tộc Việt như thế!

Tôi bỗng nhớ một chuyện về đời tư Phạm Văn Đồng như sau. Năm 1941 sau khi Phạm Văn Đồng đi Trung Cộng “đón cha” về là được đặc phái đi khu V ngay theo lệnh Hồ Chí Minh, để lại cô vợ trẻ ở Hà Nội phải tự lần vào khu V tìm chồng, mà đến nơi thì bà “bỗng dưng” bị bệnh “nửa nhớ nửa quên” không nhận ra chồng mình nữa. Chắc bà cũng đã phải suốt đời tự hỏi “lúc nhớ lúc quên”, liệu chồng mình có phải là chồng mình hay không (?), hay là liệu Phạm Văn Đồng có phải là Phạm Văn Đồng (?), cũng như câu hỏi cảm thán trên của tôi mà thôi, rằng liệu Phạm Văn Đồng có phải là người Việt không mà ngu ác với dân Việt, nước Việt đến thế!

Với Trường Chinh, chính vì những động thái cuối đời của ông ta, trong bộ ba Đồng-Chinh-Giáp tôi đánh giá Trường Chinh “đỡ” hơn hai kẻ kia một chút, dù cuối cùng thì họ cùng là bè lũ tội đồ của dân tộc Việt như nhau mà thôi. Họ đã phạm tất cả các tội ác tày đình nhất mà con người có thể phạm: hại dân Việt, hại nước Việt và bán đứng nước Việt cho Tàu, tất cả theo lệnh Hồ Chí Minh, và có lẽ tất cả đều để lại di hại ngàn đời sau cho dân tộc Việt!

Thế cho nên, dù tôi đã liệt kê ra 10 tội ác lớn nhất của họ như trên, như một việc tôi bắt buộc phải làm, sẽ sớm có ngày Lịch sử sẽ có phán xét cuối cùng với họ. Và tôi tin Lịch sử rất công minh.

Phan Châu Thành

danlambaovn.blogspot.com

(1) danlambaovn.blogspot.com/2014/04/10-ieu-giong-nhau-ngau-nhien-cua-bo-ba.html

Đọc thêm:

Những sự thật cần phải biết (phần 14) - Trường Chính - Kẻ vong bản

Những sự thật cần phải biết (phần 18) - Tội ác của Phạm Văn Đồng

Những sự thật cần phải biết (phần 19) - Sự thật về Võ Nguyên Giáp 



Vì sao CSVN đã thất bại và tiếp tục thất bại hơn 20 năm kêu gọi HHHG với Việt kiều? Chỉ vì CSVN vẽ sai bản đồ lộ trình và kế hoạch thì không có mốc thời gian để người dân và Việt kiều có thể xét đoán từng phần của kế hoạch HHHG dân tộc. Thí dụ như lộ trình Sài Gòn ra Hà Nội thì phải đến Nha Trang lúc mấy giờ, đến Huế lúc mấy giờ. Nếu xe chạy Sài Gòn Hà Nội mà đến Cần Thơ hoặc Bạc Liêu thì biết sai lộ trình và cần quay đầu lại. Lộ trình mà đảng CSVN muốn Việt kiều đi vào bị CSVN gài quá nhiều mìn bẫy nên chỉ có vào con nai Việt kiều bị sập bẫy còn đa số thì chẳng ai tin HHHG theo kiểu CS. Những nạn nhân như ông Trần Trường, người đã từng thờ lạy Hồ Chí Minh ở Mỹ và sau đó bán nhà ở Mỹ cuốn gói về VN lập nghiệp, hiện nay ông Trường bị đảng CSVN cướp sạch. Ông Trịnh Vĩnh Bình mang tiền từ Hòa Lan về đầu tư, ông đã bị đảng CSVN cướp sạch, ông Bình may mắn thoát thân nếu không đã ngồi tù. Những doanh nhân làm ăn thành đạt trong nước như ông Trần Huỳnh Duy Thức, Ls. Lê Quốc Quân, Đinh Nhật Uy, Nguyễn Bắc Truyển, Ls. Nguyễn Văn Đài, đều bị CSVN dùng bạo lực đàn áp và bắt bỏ tù. Những người vừa kể tạo ra công ăn việc làm cho người dân và họ đóng thuế thương nghiệp cho VN, CSVN biến họ từ những người hữu dụng thành những người tù.

CSVN muốn HHHG với Việt kiều nhưng CS chỉ làm những chuyện Việt kiều bất mãn và khinh bỉ. Có ai lại muốn HHHG với những chuyên viên nói láo, ăn nói ngang ngược không biết ngượng, lường gạt, cướp giật, đánh dân đến chết, tham nhũng, bán nước? Chẳng lẽ HHHG với CSVN để cùng nói láo, cùng đánh dân, cùng cướp tài sản của dân, cùng bán nước? Chẳng lẽ HHHG với CSVN để Việt kiều hùa theo đảng CSVN gọi quân xâm lược là bạn 4 tốt 16 vàng? CSVN miệng thì kêu gọi HHHG dân tộc nhưng hành động thì chia rẽ dân tộc. Những người như anh Điếu Cày, cô Phạm Thanh Nghiên, cô Tạ Phong Tần, em Phương Uyên, em Đinh Nguyên Kha, cô Bùi Thị Minh Hằng... chỉ vì chống Tàu xâm lược mà bị đám nha sai của Tàu là đảng CSVN đánh đập, bỏ tù, cấm di chuyển. Việt kiều gọi TQ là quân xâm lược tức cũng cùng một giuộc với các tù nhân lương tâm trong nước thì đảng CSVN vì lý do gì muốn HHHG với Việt kiều mà không bỏ tù họ? Ở với Việt cộng thì thấy hành động còn chưa tin thì kể chi đến chỉ nghe nói suông. Những bà mẹ liệt sĩ nay trở thành dân oan sống ngoài đường chỉ vì mấy chục năm trước đã nghe lời HHHG với Việt cộng.

Mấy mươi năm trước Việt kiều liều mạng ra biển chứ nhất định không HHHG với CS cho nên kết quả là được tự do, con cháu được học hành thành tài, có đời sống văn minh, tiến bộ và nhất là có quyền gọi Tàu là quân xâm lược và tha hồ treo biểu ngữ Hoàng Sa, Trường Sa là của VN mà chẳng những không ngồi tù mà còn được Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn âu yếm mời chào HHHG mới là chảnh. Việt kiều đã liều mạng bỏ trốn mà ông Thứ trưởng Sơn cứ lẽo đẽo đeo theo như "đĩ" đói là sao? Việt kiều nào dại dột mà HHHG với Việt cộng thì sẽ mất quyền nói thật và chỉ còn quyền nói láo như vẹm. Việt kiều nào muốn 5-7 năm tới trở thành dân oan như các bà mẹ liệt sĩ đã có công với cách mạng cách đây mấy chục năm thì cứ nhào dzô chết ráng chịu. Không biết có Việt kiều nào khen ông Trần Trường khôn ngoan HHHG với VC? Nêú có thì mời quý vị kể cho bà con, cô bác xa gần nghe cho biết.

CSVN còn giữ điều 4 Hiến pháp lại tiếp tục kêu gọi HHHG dân tộc thì chính xác 100% là CS đang lường gạt người dân. Làm sao HHHG dân tộc khi điều 4 Hiến pháp dành độc quyền cai trị vào tay đảng CSVN? HHHG dân tộc mà người dân không được quyền lựa chọn hay truất phế người lãnh đạo thì cứ giống như thời phong kiến. Muốn lật đổ mấy ông vua thối nát thì người dân phải nổi dậy cho dù có bị tru di tam tộc khi thất bại. Nói cho cùng, chết còn sướng hơn ở trong địa ngục XHCNVN. Hiện tượng bloggers VN cứ phải ra nước ngoài để được nói lên những sự thực, những ẩn ức dồn nén chỉ vì những phương tiện truyền thông trong nước đều ngoảnh mặt với họ. Dân VN phải qua Philippin biểu tình chống Tàu xâm lược, để được tự do tỏ lòng yêu nước. Đảng và Nhà nước lúc này cấm người yêu nước xuất ngoại vì sợ dân ăn nói phạm húy Hoàng đế Trung Hoa. Coi bộ lúc này ra nước ngoài để yêu nước mình cũng nhiêu khê và tranh đấu căng thẳng với Đảng và Nhà nước. Cái sân bay quốc tế là mơ ước của toàn dân. Không có gì quý hơn cái sân bay độc lập- tự do- hạnh phúc.

Lộ trình HHHG với Việt kiều và với người dân rất đơn giản:

- Bỏ đìều 4 Hiến pháp. 

- Thả hết tù nhân chính trị.

- Gọi Tàu là quân xâm lược thay vì là bạn 16 vàng và 4 tốt. Người dân được tự do biểu tình chống Tàu 

- Sửa Hiến pháp và mọi công dân đều có quyền bầu cử và ứng cử, có quyền lập hội.

- Đất nước phải cần có báo chí, đài phát thanh tư nhân.

- Luật pháp phải nghiêm minh trừng trị công an giết dân.

- Bồi hoàn đất đai, nhà cửa người dân theo đúng giá thị trường.

- Trừng trị những kẻ tham nhũng.

Nếu đảng CSVN không theo được lộ trình hợp lý và đơn giản như trên mà vẫn tiếp tục kêu gọi HHHG thì đó chỉ là mánh khoé lường gạt để kiếm dollar và chắc chắn tiếp tục thất bại. Ở VN hiện nay HHHG đang vượt chỉ tiêu, nở rộ giữa công an và côn đồ. Ông bà ta đã nói "mã tầm mã, ngưu tầm ngưu" hoặc "côn an tầm côn đồ" 



30/4/2014

Ngọc Ẩn 

danlambaovn.blogspot.com
Tổ quốc Việt Nam lâm nguy, đồng bào Việt Nam điêu đứng vì Cộng sản là loài vô tổ quốc, vô đồng bào, vô dân tộc!


tải về 0.88 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương