Quyền sở HỮu trí tuệ TÀi liệu bài giảNG



tải về 3.65 Mb.
trang1/35
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích3.65 Mb.
#35323
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   35
1

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

TÀI LIỆU BÀI GIẢNG

(bổ sung, sửa đổi theo

Luật Sở hữu Trí tuệ 2005)

LÊ NẾT


Tiến sỹ luật học (LSE, London)

Luật sư thành viên Công ty luật LCT

Giảng viên Khoa Luật Dân sự

Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh

Email: net.le@lctlawyers.com

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2006


LỜI NÓI ĐẦU

Trong Hội nghị Toàn quốc về Thực thi Quyền Sở hữu Trí tuệ tại Hà Nội, tháng

9/2004, Phó Thủ tướng Vũ Khoan nêu lên một vấn đề - đó là cho đến nay vẫn

chưa có giáo trình về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Trong khi chờ soạn thảo và

xuất bản giáo trình luật sở hữu trí tuệ, quyển “Quyền Sở hữu Trí tuệ - Tài liệu

Bài giảng” này ra đời nhằm mục đích cung cấp tài liệu tham khảo cho các sinh

viên luật, các học viên của các khoá đào tạo về sở hữu trí tuệ, các nhà nghiên

cứu về luật sở hữu trí tuệ, và các luật sư. Cách tiếp cận vấn đề của quyển sách

là xem xét và nghiên cứu quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ của một quốc gia

đang phát triển, phân tích luật pháp trên những nguyên tắc triết học và kinh tế,

dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Từ xuất phát điểm trên, tác giả

phân tích những mặt lợi, mặt hại của việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí

tuệ tại Việt Nam, các cam kết mà Việt Nam cần thực hiện trong Hiệp định

Thương mại Việt - Mỹ, hay trong quá trình tham gia Tổ chức Thương mại Thế

giới. Quyển sách được tổng hợp vào năm 2002 và chỉnh sửa vào năm 2004.

Quyển sách được trình bày như một tài liệu giảng dạy, mỗi chương tương ứng

với một bài học. Mỗi bài học có phần khái niệm, chủ thể, khách thể và nội dung

của quan hệ pháp luật mà quyển sách đề cập đến. Sau khi đề cập nội dung

(quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trí tuệ), quyển sách phân tích việc thực thi

quyền sở hữu trí tuệ đối với từng đối tượng cụ thể, những khó khăn chủ quan và

khách quan trong việc thực thi. Cuối mỗi chương có kết luận cùng các câu hỏi

ôn tập. Sau khi phân tích từng đối tượng sở hữu trí tuệ, tác giả đề ra những

kiến nghị nhằm đưa đến một hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách cân

bằng, cho chủ sở hữu trí tuệ và cho người tiêu dùng, phù hợp với sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước. Mục đích của quyển sách là phân tích và trình

bày quyền sở hữu trí tuệ như một công cụ của chủ thể quyền. Công cụ đó có cả

hai mặt – tích cực và tiêu cực. Vai trò của Nhà nước, là người điều hành nền

kinh tế, là cho chủ sở hữu trí tuệ cơ hội để biến những ưu điểm của việc sử dụng

quyền sở hữu trí tuệ trở thành hiện thực, và hạn chế mặt tiêu cực của việc lạm

dụng quyền sở hữu trí tuệ.

Tác giả xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Văn Viễn, nguyên Cục trưởng Cục

Sáng chế, ThS Phạm Kim Anh, Trưởng khoa Luật Dân sự Trường Đại học Luật

TP Hồ Chí Minh, anh Vũ Duy Quy, chuyên gia bảo hộ nhãn hiệu công ty

Unilever Việt Nam và nhiều chuyên gia về sở hữu trí tuệ khác đã đóng góp

những ý kiến quí báu cho quyển sách. Các khiếm khuyết thuộc về tác giả. Tác

giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của bạn đọc, cũng như các

tài liệu tham khảo khác về ngành khoa học mới mẻ và đầy khó khăn này.

Lê Nết, PhD (London School of Economics and Political Science)

10

Chương 1: Giới thiệu về sở hữu trí tuệ



Sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành một lĩnh vực được quan tâm. Một

doanh nghiệp muốn phát triển phải nghĩ đến chuyện bảo vệ thương hiệu (nhãn

hiệu hàng hoá) của mình. Một cử nhân luật khi ra trường ngày nay đòi hỏi phải

có một số kiến thức về quyền tác giả hay nhãn hiệu hàng hoá. Còn đối với

những người muốn gắn sự nghiệp của mình với môn học này, khám phá các đặc

tính của các đối tượng sở hữu trí tuệ vẫn còn là một vấn đề khó khăn song đầy

hứng thú.

Tại sao phải học về sở hữu trí tuệ? Có phải đó là một lĩnh vực khó hiểu và

không có ứng dụng? Có phải đó là một khái niệm quá mới? Hay lĩnh vực này

được du nhập từ những khái niệm xa lạ của nước ngoài và chỉ bảo vệ chủ thể

nước ngoài? Thực sự không phải vậy. Trong cuộc sống chúng ta gặp rất nhiều

vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Nhà may Tuấn ở đầu phố đắt khách, bạn

mở cửa hiệu may, cũng treo biển "Nhà may Tuấn" cho cửa hiệu của bạn, Nhà

may Tuấn ở đầu phố có quyền yêu cầu bạn gỡ biển không? Bạn đang xuất khẩu

sang Nga một lô quần áo đang “mốt”, để tránh bị các nhà buôn khác bắt chước

kiểu dáng, bạn có nên đi đăng ký kiểu dáng công nghiệp hay không? Bạn viết

một bài báo, toà soạn chỉnh sửa nội dung bài báo và đưa vào đó những ý tưởng

bạn không hề nghĩ tới. Toà soạn có xâm phạm quyền tác giả của bạn không?

Bạn mang máy cassette vào một buổi trình diễn âm nhạc, thu băng và cho bạn

bè sao chép lại. Băng đĩa sao chép có bị coi là băng đĩa lậu không? Đó là những

vấn đề mà luật về sở hữu trí tuệ phải giải quyết. Tuy báo chí không dùng nhiều

danh từ “sở hữu trí tuệ”, song những vấn đề có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí

tuệ lại rất phổ biến: hàng giả, hàng nhái, sao chép lậu, cạnh tranh không lành

mạnh, nhượng quyền thương hiệu, v.v. Để minh họa vai trò của quyền sở hữu

trí tuệ, chúng ta có thể xét hai ví dụ dưới đây:

1. Xe máy DREAM II của hãng sản xuất ôtô xe máy Honda (Nhật Bản)

là một trong những xe máy nổi tiếng nhất tại Việt Nam, gia nhập thị

trường từ cuối những năm 1980. Khoảng 6 năm sau, trên thị trường

bắt đầu xuất hiện những loại xe có kiểu dáng giống hệt xe DREAM

II, như DEALIM, LIFAN, HONGDA v.v. do Hàn Quốc và Trung

Quốc sản xuất. Đây là thiệt hại không nhỏ đến thị phần và lợi nhuận

của Honda, vì Việt Nam là một trong những thị trường tiêu thụ xe

máy lớn nhất thế giới. Honda yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền can thiệp và ngăn chặn hành vi xâm phạm “quyền sở hữu

công nghiệp” của mình nhưng không thành công. Lý do là vì Honda

đã phạm sai lầm “chết người”: không đăng ký bảo hộ kiểu dáng xe

11

DREAM II trước khi đưa xe ra thị trường. Do kiểu dáng xe



DREAM II đã mất tính mới đối với thế giới, nên không còn khả

năng được bảo hộ, và vì vậy “quyền sở hữu công nghiệp” của

HONDA đối với kiểu dáng xe DREAM II cũng không được xác lập.

2. Đến năm 2005 sai lầm của Honda đối với xe DREAM II lại được lập

lại, lần này là các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản và Hoa Kỳ, và đối

thủ cũng không ai khác là các nhà sản xuất xe hơi Trung Quốc. Một

loạt các loại xe bán tải của Trung Quốc như FAW, Giải Phóng, Đông

Phong, Hồng Kỳ … được các xí nghiệp ôtô Việt Nam lắp ráp có kiểu

dáng là bản sao kiểu dáng của các loại xe Nhật như ISUZU NHR,

MITSUBISHI. Tại Hoa Kỳ, hãng xe CHERY của Trung Quốc bắt

đầu xâm nhập Hoa Kỳ với kiểu dáng xe QQ phỏng theo kiểu dáng xe

DEAWOO MATIZ của GM Deawoo (do Hoa Kỳ mua lại của Hàn

Quốc). Các công ty Nhật và Hoa Kỳ đã mắc cùng khuyết điểm của

Honda năm xưa: không đăng ký kiểu dáng công nghiệp cho xe trước

khi xuất xưởng:

Hình 1: sao chép kiểu dáng công nghiệp giữa hai loại xe

Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ xuất phát từ hai vai trò nổi bật của các đối

tượng sở hữu trí tuệ: đó là việc nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật trên thế

giới và việc định hướng phát triển khoa học - công nghệ của các quốc gia.

Về vai trò thứ nhất, chúng ta thấy các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được

bảo hộ kế thừa những thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ đi trước.

Thí dụ, một chiếc điện thoại di động dùng thẻ hiện nay là kết quả phát triển của

biết bao nhiêu sáng chế. Từ những phát minh đầu tiên về sóng điện từ, từ "sáng

chế" thiết bị nghe bằng hai chiếc ống bơ nối lại với nhau, G. Bell và E. Macconi

đã sáng chế ra chiếc điện thoại đầu tiên trên thế giới. Ban đầu, chất lượng điện

thoại chưa cao, và các tổng đài phải nối dây bằng tay. Rồi sau đó, người ta đã

dùng cáp đồng để nối những đường dây xuyên lục địa đầu tiên. Sau khi có

những sáng chế về phát sóng vô tuyến, và nhất là sau khi những vệ tinh đầu tiên

được phóng vào vũ trụ, người ta đã bắt đầu nghĩ đến chuyện liên lạc bằng vô

tuyến. Tiếp theo là việc ra đời sáng chế máy điện toán cũng đã tự động hóa

12

được rất nhiều công đoạn mà trước kia phải làm bằng tay. Không chỉ dừng ở



đó, việc chế tạo ra công nghệ cáp quang và công nghệ kỹ thuật số (digital) đã

khiến cho chất lượng âm thanh truyền tải được nâng lên không ngừng, cho dù

khoảng cách giữa hai người nói chuyện điện thoại xa bao nhiêu. Ngoài công

nghệ truyền tin hữu tuyến, cách thức truyền tin vô tuyến, thông qua những chiếc

điện đài đầu tiên đã phát triển thành những trạm điện thoại vô tuyến cố định, rồi

vô tuyến di động đầu tiên trên thế giới. Tuy thế, cũng phải mất gần 10 năm cho

việc đi từ những chiếc điện thoại di động hệ NMT to và chất lượng không ổn

định đầu tiên đến những chiếc điện thoại di động hệ GSM hiện nay qua hệ

CDMA, đến hệ điện thoại vô tuyến vệ tinh VSAT hay hệ IRIDIUM trong tương

lai. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy kiểu dáng, kích thước, trọng lượng, thời

gian cuộc gọi và chất lượng cuộc gọi của những chiếc điện thoại di động cũng

không ngừng phát triển. Động lực của phát triển không gì khác hơn là những

sáng chế trong công nghệ thông tin được bảo hộ độc quyền có thời hạn, đã

khuyến khích mọi người trong việc chạy đua cải tiến công nghệ.

Để có một sản phẩm sáng tạo, ban đầu nhà sản xuất phải hoạch định được

hướng phát triển sản phẩm, sau đó mới đầu tư tập trung nghiên cứu. Sau nhiều

lần thử nghiệm và thất bại mới ra đời được những ý tưởng có khả năng áp dụng

đầu tiên. Tuy nhiên, để một ý tưởng trở thành sự thực và được người tiêu dùng

chấp nhận sản phẩm, nhà sản xuất phải liên tục cải tiến và hoàn thiện sản phẩm,

quảng cáo, phát triển mạng lưới phân phối cho đến khi thành công, rồi lại phải

không ngừng cải tiến để đứng vững trước sức cạnh tranh và nhu cầu thay đổi

của người tiêu dùng. Vì thế, sáng chế là thành quả lao động trí óc của nhiều thế

hệ. Nó xứng đáng được bảo hộ độc quyền.

Vai trò thứ hai của các đối tượng sở hữu công nghiệp mà hiện nay chúng ta ít để

ý đến là vai trò thông tin và định hướng đầu tư. Khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ

một đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế hay giải pháp hữu ích, chủ thể

nộp đơn phải bộc lộ đầy đủ cách thức tạo ra sáng chế trong bản mô tả

(description) và thông báo cho các chủ thể khác biết về sáng chế của mình trên

công báo sở hữu công nghiệp thông qua bản tóm tắt (abstract) và các yêu cầu

bảo hộ (claim). Vì thế, cơ quan sở hữu công nghiệp cũng là nơi lưu giữ những

thông tin vô giá về trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay trên thế giới. Trung tâm

Thông tin Khoa học Công nghệ TP Hồ Chí Minh ở số 79 Trương Định, hay Cục

SHTT ở 137 Nguyễn Trãi - Hà Nội là một thí dụ. Tại đây mọi người có thể

nắm được các thông tin như: hướng nghiên cứu sản phẩm, công nghệ của mình

đã có người đi trước khám phá ra chưa, nhãn hiệu của mình đã có người yêu cầu

bảo hộ chưa.1 Nếu có thì các đối tượng sở hữu công nghiệp đó còn được bảo hộ

hay không? Mình có nên tiếp tục nghiên cứu phát triển công nghệ hay không,

1 Thông tin sở hữu trí tuệ (tham luận tại Hội thảo về sở hữu trí tuệ tháng 9 năm 1998 do Cục

SHTT và WIPO tổ chức).

13

hay hướng sang phương thức khác (thí dụ như thương lượng với các chủ sở hữu



công nghiệp để nhận li-xăng các đối tượng nói trên)? Biết được những thông

tin này, chúng ta sẽ có tâm lý an tâm khi đầu tư nghiên cứu sản phẩm, cũng như

tiếp thu công nghệ từ các doanh nghiệp khác. Ít nhất chúng ta cũng biết công

nghệ mà chúng ta nhập vào có thuộc loại hiện đại nhất trên thế giới hay không,

hoặc có thích hợp với Việt Nam hay không. Biết khai thác những thông tin về

sở hữu công nghiệp, đặc biệt là các thông tin về sáng chế cũng là một trong

những chìa khoá để phát triển công nghệ đất nước.

1.1 Khái niệm về sở hữu trí tuệ

1.1.1 Thế nào là “trí tuệ”

Trên thực tế có rất nhiều sản phẩm của trí tuệ. Việc huấn luyện viên Weigang

tuyển chọn được Hồng Sơn, Huỳnh Đức vào đội tuyện Việt Nam, sắp xếp đội

hình thi đấu ở Seagame 18 chắc chắn là một sản phẩm trí tuệ. Tuy nhiên,

Weigang không được hưởng quyền “sở hữu” sản phẩm trí tuệ của mình.

Ngược lại, hai chữ cái (thí dụ nhãn hiệu kem đánh răng P/S) không có gì là “trí

tuệ” thì lại được coi là đối tượng của sở hữu trí tuệ. Vậy không phải mọi thứ

“trí tuệ” đều được bảo hộ dưới dạng quyền sở hữu trí tuệ. Ngược lại không phải

mọi quyền sở hữu trí tuệ đều là sản phẩm của trí tuệ. Mặc dù không có định

nghĩa chính thống và trực tiếp thế nào là sở hữu trí tuệ, ta có thể định nghĩa

quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả

lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được pháp luật quy

định bảo hộ. Trong định nghĩa này, cũng cần bổ sung thêm là mặc dù quyền sở

hữu trí tuệ có tên gọi và nhiều điểm tương đồng với quyền sở hữu, song hiện

nay các học giả vẫn chưa nhất trí xem có nên coi quyền sở hữu trí tuệ là một

loại quyền sở hữu hay không.

1.1.2 Tài sản vô hình có thể là “sở hữu” được không?

Khi phân tích khái niệm sở hữu trí tuệ, chúng ta thấy nổi lên một số vấn đề cần

phải giải thích rõ. Trước tiên là khái niệm tài sản vô hình. Nó khác với tài sản

theo Điều 161 Bộ Luật Dân sự (BLDS - các tài sản hữu hình). Tài sản vô hình

là những tài sản không nhìn thấy được, nhưng trị giá được bằng tiền và có thể

trao đổi (thí dụ thương quyền, uy tín). Sau đó chúng ta cũng cần phải lưu ý khái

niệm "thành quả lao động sáng tạo".

Yếu tố thứ hai, hiện diện trên hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ là sự sáng tạo.

Nếu không có sáng tạo thì cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng không

khác gì cuộc sống cách đây 10 hay 20 năm. Lần về sâu nữa trong quá khứ cách

đây mới có 300 năm, mức sống ở châu Á và mức sống ở châu Âu không khác gì

14

nhau. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiêp đã thay đổi cách nhìn của mọi



người về giá trị của sự sáng tạo. Một loạt sáng chế, cải tiến ra đời cho thấy sáng

tạo là động lực phát triển của xã hội, và vì thế Nhà nước phải có cơ chế khuyến

khích hoạt động sáng tạo thông qua quy định bảo hộ. Tuy nhiên, pháp luật chỉ

bảo vệ những thành quả lao động sáng tạo có đóng góp nhất định đối với sự

phát triển của kinh tế xã hội. Một số thành quả lao động sáng tạo không đem lại

lợi ích thực tế gì và không ứng dụng vào thực tế cuộc sống được (thí dụ như

một trò ảo thuật biến một chiếc cốc màu đỏ thành màu xanh) không được bảo vệ

dưới dạng sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng nâng cao

được chất lượng sản phẩm. Câu chuyện về chiếc đèn Davy là một thí dụ.

Humphry Davy (1778 – 1829) phát minh ra chiêc đèn an toàn (ở Việt Nam gọi

là đèn măng-xông). Loại đèn này được đặt trong mạng lưới dây dẫn để ngăn

không cho lửa tràn ra ngoài, gây cháy nổ; giải quyết được nguy cơ lớn nhất cho

những người thợ mỏ khi phải sử dụng nến trong hầm lò. Tuy nhiên, Davy đã

không xin cấp bằng sáng chế bởi ông muốn đó là một “sáng chế để cứu người”.

Kết quả là rất nhiều thương gia đã sản xuất đèn an toàn và bán tràn lan bất chấp

chất lượng thấp và đã gây ra nhiều vụ nổ hầm lò khiến nhiều người thiệt mạng.

Thảm kịch này dạy cho chúng ta bài học: bằng độc quyền sáng chế còn được

dùng để bảo đảm chất lượng sản phẩm của nhà sản xuất.

Bên cạnh thành quả lao động sáng tạo, uy tín thương mại cũng là một tài sản có

giá trị lớn. Đó là những tài sản vô hình, song đôi khi lại là những tài sản có giá

trị nhất và cần phải được bảo vệ. Thí dụ trong khi góp vốn liên doanh xây dựng

nhà máy sản xuất kem đánh răng Elida P/S, giá trị nhà xưởng và quyền sử dụng

đất của phía Việt Nam được định giá chưa đến 1 triệu USD, trong khi đó nhãn

hiệu P/S được mua với giá hơn 4 triệu USD. Vì sao một dấu hiệu lại được định

giá cao như vậy? Bởi vì đằng sau nhãn hiệu (hữu hình) là cả một quá trình phấn

đấu đầu tư công sức (vô hình) của cả một tập thể nhà máy đưa một sản phẩm từ

khi chưa có chỗ đứng trên thị trường trở thành một sản phẩm nổi tiếng chiếm

hơn 2/3 thị phần Việt Nam (vào thời điểm liên doanh). Như vậy, nhãn hiệu P/S

không chỉ đơn thuần là để phân biệt với các hãng kem đánh răng khác. P/S lúc

đó là biểu tượng của uy tín thương mại của sản phẩm do Công ty Hoá mỹ phẩm

P/S sản xuất. Điều đáng tiếc là trong những năm đầu mở cửa, các doanh nghiệp

Việt Nam khi tham gia góp vốn liên doanh đã không tính đến chuyện góp vốn

bằng tài sản vô hình (mạng lưới kinh doanh, đặc quyền phân phối sản phẩm,

thương hiệu) mà tập trung nhiều đến quyền sử dụng đất, khiến trị giá tài sản góp

vốn của đối tác trong nước trong liên doanh thấp.

Hình 2: nhãn hiệu kem đánh răng P/S được định giá 5 triệu USD

15

Thí dụ, xí nghiệp chế biến thực phẩm A qua bao nhiêu năm kinh doanh đã phát



triển được mạng lưới tiêu thụ trên khắp cả nước, nhãn hiệu của A đã trở nên

quen thuộc với người tiêu dùng. Gần đây A nhận được lời đề nghị của công ty B

của Nhật để thành lập liên doanh, với mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm

tiêu thụ nội địa và xuất khẩu (chủ yếu là sang Mỹ). Trị giá tài sản cố định góp

vốn của A là 3 triệu USD (bao gồm quyền sử dụng đất, nhà xưởng, máy móc

thiết bị). B đề nghị đóng góp vốn 7 triệu USD bằng tiền mặt để thành lập liên

doanh 30/70. Trong trường hợp này, tỷ lệ góp vốn của A sẽ cao hơn nếu A yêu

cầu liên doanh sử dụng nhãn hiệu của mình và tính đến những tài sản vô hình

mà mình góp vốn vào công ty (nhãn hiệu, mạng lưới tiêu thụ).

1.1.3 Triết học về sở hữu trí tuệ

Triết học về sở hữu trí tuệ đa số bắt nguồn từ triết học về quyền sở hữu. Ở các

nước tư bản chủ nghĩa, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ ba cơ sở

triết học: triết học về giá trị của lao động (của John Locke),2 về quyền tự do

sáng tạo (của Emmanual Kant và George Hegel) và về phương tiện

(utilitarialism của Jeremy Bentham).3 Theo triết học của Locke (thế kỷ 17), bất

cứ tài sản gì là thành quả lao động của người nào thì người đó làm chủ sở hữu.

Người lao động có thể cho, bán, trao đổi tài sản của mình. Lao động trí óc cũng

không phải là ngoại lệ, vì thế người lao động trí óc có quyền sở hữu đối với

thành quả lao động sáng tạo của mình. Theo triết học của Kant và Hegel (thế kỷ

18 và 19), con người được tự do về tinh thần và ý chí. Để thực hiện quyền tự do

của mình, con người cần phải có quyền sở hữu (để toàn quyền định đoạt một vật

theo ý chí của mình). Như vậy quyền sở hữu là công cụ để đạt được tự do.4

Theo triết học của Bentham, quyền sở hữu chỉ là công cụ, làm đòn bẩy để Nhà

nước khuyến khích cá nhân lao động, nhằm đạt được mục đích sau cùng – đó là

phúc lợi xã hội.5 Một thí dụ điển hình là sản lượng nông nghiệp của nước ta đã

gia tăng đáng kể từ khi quyền sử dụng đất được giao cho nông dân.

Các triết học kể trên mới nêu được một khía cạnh của vấn đề: đó là ưu điểm của

quyền sở hữu. Triết học Marx-Lenin cũng công nhận cơ sở của quyền sở hữu là

lao động. Tuy nhiên, Marx cũng nhìn thấy bản chất giai cấp trong khái niệm sở

hữu. Giai cấp nào sở hữu nhiều của cải hơn cả sẽ trở thành giai cấp thống trị.6

2 Butler, B. E. (2001) Internet Ecyclopedia of Philosophy. University of North Carolina at

Asheville (re: Legal Pragmatism, G.W.F. Hegel, J. Locke, Right to Private Property). Available

at http://www.utm.edu/research/iep/.

3 Schofield, P. S. and Harris, J. (1998) The Collected Works of Jeremy Bentham – Legislator of

the World: Writing on Codification, Law and Education. Clarendon, Oxford.

4 Duquete, D. (1999) Georg Wilhelm Friedrich Hegel – Social and Political Thought. Internet

Encyclopedia of Philosophy.

5 Schofield, P. S. and Harris, J. (1998) sđd.

6 Schumpeter, J. (1997) Ten Great Economists: From Marx to Keynes. Routledge.

16

Đối với giai cấp còn lại, những giá trị như “tự do”, “bình đẳng” sẽ trở nên kém



ý nghĩa nếu họ không có quyền sở hữu, nhất là sở hữu tư liệu sản xuất, một khi

phần lớn của cải xã hội ở trong tay người khác. Như vậy, việc sử dụng quyền

sở hữu không phải không có khía cạnh tiêu cực, đó là việc tập trung quá nhiều

tài sản vào tay thiểu số có quyền lực, dẫn tới việc các thiểu số này có khả năng

lạm dụng quyền sở hữu. Thí dụ điển hình nhất là việc tập trung tư liệu sản xuất

vào một số công ty sẽ dẫn đến việc các công ty này trở nên độc quyền, nâng giá

sản phẩm và kìm hãm sự phát triển của các công ty khác. Như vậy, triết học

Marx-Lenin một mặt coi trọng quyền tự do sáng tạo, mặt khác cũng coi trọng

việc kiểm soát việc lạm dụng quyền sở hữu vì mục đích cá nhân. Theo thống kê,

các công ty đa quốc gia chiếm 90% tổng số văn bằng bảo hộ sáng chế đối với

những công nghệ quan trọng. Để đạt được thành tích này, các nước phát triển

chi 90% trong tổng số chi phí nghiên cứu khoa học của toàn cầu.7

Tuy nhiên, không phải tất cả các triết học áp dụng cho quyền sở hữu tài sản

thông thường đều có thể áp dụng cho quyền “sở hữu trí tuệ.” Đó là vì tài sản

hữu hình khác với tài sản vô hình. Thứ nhất, việc sở hữu tài sản hữu hình của

một người ít khi tạo nên tình trạng độc quyền, ảnh hưởng đến phương pháp sản

xuất kinh doanh của người khác. Thí dụ một người làm chủ một khách sạn

không thể ngăn cản người khác xây một khách sạn khác cạnh tranh ngay trên

cùng một bãi biển. Trong khi đối với tài sản vô hình, một người có bằng sáng

chế về giải pháp xây dựng công trình có thể ngăn cấm những người khác áp

dụng giải pháp của mình bất cứ nơi nào khi chưa có sự đồng ý của chủ văn bằng

sáng chế. Vì thế triết học của Locke (lao động đến đâu hưởng quyền sở hữu đến

đó) không hoàn toàn thích hợp cho tài sản vô hình (người đến sau không thể

tiếp tục lao động nếu cánh cửa sáng tạo đã bị người đến trước án ngữ). Thứ hai,

việc định đoạt một tài sản hữu hình cần phải đi kèm với sự chiếm hữu (thí dụ

chỉ có thể chuyển quyền sử dụng một chiếc xe nếu chủ xe giao quyền chiếm hữu

chiếc xe đó cho người sử dụng). Điều này không diễn ra đối với tài sản vô hình

(không ai biết hiện giờ có bao nhiêu người hát bài hát của một nhạc sỹ). Vì thế

triết học của Hegel (cần có quyền sở hữu để có tự do) không chính xác đối với

tài sản vô hình. Thứ ba, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể là đòn bẩy để phát

triển kinh tế, song bảo hộ quá lâu, quá nhiều hay chưa đúng lúc có thể cản trở sự

phát triển của nền kinh tế. Từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1912, Hà Lan tạm ngưng

không áp dụng luật về sáng chế. Gerhard Philips đã lợi dụng cơ hội này sản xuất

bóng đèn tròn cạnh tranh với sản phẩm của Edison đang được bảo hộ ở Hoa Kỳ

và nhiều nước. Đó là tiền thân của công ty Philips ngày nay.8 Hàn Quốc hay

Nhật Bản cũng đều là những tấm gương về học hỏi công nghệ của các quốc gia

tiên phong.

7 Correra, C. and Yusuf, A. (1998) Intellectual Property and International Trade – The TRIPS

Agreement. Sweet & Maxwell.

8 Kingston, W. (1990) Innovation, Creativity and Law. Kluwer.



tải về 3.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương