Quy chế rome về TÒA Án hình sự quốc tế ĐẠi hộI ĐỒng liên hợP quốc năM 1998 quy chế 4



tải về 429.44 Kb.
Chế độ xem pdf
Chuyển đổi dữ liệu27.08.2022
Kích429.44 Kb.
#53019
Quy chế Rome về Tòa án Hình sự Quốc tế - Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1998 - Quy chế 4 (download tai tailieutuoi.com)




QUY CHẾ ROME VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ 
ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HỢP QUỐC NĂM 1998 - QUY CHẾ 4
 
(Được thông qua ngày 17/7/1998, tại Hội nghị ngoại giao về việc thiết lập Tòa án Hình sự quốc tế do Liên 
Hợp Quốc tổ chức. Có hiệu lực từ ngày 01/7/2002, theo Điều 126) 
Các Quốc gia thành viên Quy chế: 
Đã thỏa thuận như sau: 
Thành lập Tòa án hình sự quốc tế (Tòa án). Tòa án là một cơ quan thường trực, có thẩm quyền xét xử những cá 
nhân phạm các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất được quy định trong Quy chế này, và sẽ bổ sung cho quyền tài phán 
hình sự quốc gia. Quyền tài phán và chức năng hoạt động của Tòa án được quy định trong Quy chế này. 
Tòa án quan hệ với Liên Hợp Quốc trên cơ sở một thỏa thuận được Hội đồng Quốc gia thành viên Quy chế này 
thông qua và do Chánh án Tòa án đại diện cho Tòa án ký. 
1. Trụ sở của Tòa án đặt tại La-hay, Hà Lan (nước chủ nhà). 
2. Tòa án sẽ ký kết thỏa thuận về trụ sở chính với Nước chủ nhà. Thỏa thuận này sẽ được Hội đồng các Quốc gia 
thành viên của Quy chế này thông qua, và sau đó được Chánh án Tòa án ký nhân danh Tòa án. 
3. Tòa án có thể đặt trụ sở ở bất kỳ nơi nào theo quy định của Quy chế này nếu xét thấy cần thiết. 
1. Tòa án có địa vị pháp nhân quốc tế. Tòa án có năng lực pháp lý cần thiết cho việc thực hiện chức năng và hoàn 
thành mục tiêu của mình. 
2. Tòa án có thể thực hiện các chức năng và thẩm quyền của mình được quy định trong Quy chế này trên lãnh thổ 
của bất kỳ Quốc gia thành viên nào, và trên lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào khác theo thỏa thuận riêng. 
1. Quyền tài phán của Tòa án chỉ giới hạn đối với các tội ác nghiêm trọng nhất gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng 
quốc tế. Theo Quy chế này, Tòa án có quyền tài phán đối với các tội phạm sau: 
a. Tội diệt chủng; 
b. Tội ác chống nhân loại; 
c. Tội ác chiến tranh; 
d. Tội xâm lược. 
2. Tòa án sẽ thực hiện quyền tài phán đối với tội xâm lược khi một quy định về định nghĩa tội xâm lược và các 
điều kiện để Tòa án thực hiện quyền tài phán đối với tội này được thông qua theo các Điều 121 và Điều 123. Quy định 
này phải phù hợp với các quy định liên quan của Hiến chương Liên Hợp Quốc. 
Trong Quy chế này, “diệt chủng” là một trong các hành vi sau được thực hiện nhằm tiêu diệt toàn bộ hay một bộ 
phận nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo như: 
1. Giết các thành viên của nhóm; 
2. Gây tổn hại nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần cho các thành viên của nhóm; 



3. Cố ý bắt nhóm phải chịu các điều kiện sống dẫn đến hủy diệt về mặt thể chất toàn bộ hoặc một bộ phận của 
nhóm; 
4. Áp đặt các biện pháp triệt sản đối với nhóm; 
5. Cưỡng ép chuyển trẻ em của nhóm này sang nhóm khác. 
1. Trong Quy chế này, “tội ác chống nhân loại” là một trong các hành vi sau được thực hiện như một phần của 
sự tấn công có hệ thống hoặc trên diện rộng nhằm vào bất kỳ một cộng đồng dân thường nào, với nhận biết về sự tấn 
công đó: 
a. Giết người; 
b. Hủy diệt; 
c. Bắt làm nô lệ; 
d. Lưu đày hoặc cưỡng ép di chuyển dân cư; 
e. Bỏ tù hoặc có hình thức khác tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng trái với các quy tắc cơ bản của 
luật pháp quốc tế; 
f. Tra tấn; 
g. Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai, cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình 
thức bạo lực tình dục nào khác có tính chất nghiêm trọng tương tự; 
h. Ngược đãi bất kỳ nhóm hoặc tập thể người nào có chung đặc điểm vì lý do chính trị, chủng tộc, dân tộc, sắc 
tộc, văn hóa, tôn giáo, giới tính như được định nghĩa tại khoản 3, hoặc những lý do khác được thừa nhận rộng rãi là bị 
cấm theo luật quốc tế, liên quan đến bất kỳ hành vi nào nêu tại khoản này hoặc bất kỳ tội phạm nào thuộc quyền tài phán 
của Tòa án; 
i. Đưa người đi biệt tích; 
j. Phân biệt chủng tộc; 
k. Các hành vi vô nhân đạo khác có tính chất tương tự cố ý gây nhiều đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho 
thân thể hoặc sức khỏe về mặt tinh thần hay thể chất. 
2. Các từ ngữ sử dụng tại khoản 1 được hiểu như sau: 
a. “Tấn công nhằm vào bất kỳ cộng đồng dân thường nào” là một loạt hành vi nêu tại khoản 1 được thực hiện 
nhiều lần chống lại bất kỳ cộng đồng dân thường nào, theo hoặc nhằm thúc đẩy chính sách của một quốc gia hay tổ chức 
về việc thực hiện các cuộc tấn công đó; 
b. “Hủy diệt” bao gồm việc cố ý áp đặt những điều kiện sống như không cho tiếp cận nguồn lương thực, thuốc 
men nhằm tiêu diệt một bộ phận dân cư; 
c. “Bắt làm nô lệ” là việc thực hiện bất kỳ hay toàn bộ các quyền lực gắn với quyền sở hữu đối với một người, 
kể cả việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; 
d. “Trục xuất hoặc cưỡng ép di dân” là việc cưỡng ép di dời những người liên quan ra khỏi khu vực mà họ đang 
cư trú hợp pháp bằng việc trục xuất hoặc các hành vi cưỡng chế khác với các lý do không được luật pháp quốc tế thừa 
nhận; 



e. “Tra tấn” là cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ về thể xác hoặc tinh thần cho người đang bị giam giữ hoặc đang 
chịu sự kiểm soát của cá nhân bị buộc tội; Trừ trường hợp sự đau đớn hoặc đau khổ xuất phát, gắn liền hoặc liên quan 
đến các hình phạt hợp pháp; 
f. “Ép buộc mang thai” là việc giam giữ bất hợp pháp phụ nữ bị buộc mang thai nhằm mục đích thay đổi thành 
phần sắc tộc của bất kỳ cộng đồng dân cư nào hoặc để thực hiện các hành vi vi phạm luật quốc tế nghiêm trọng khác. 
Định nghĩa này không ảnh hưởng đến pháp luật quốc gia về thai sản; 
g. “Ngược đãi” là việc tước đoạt nghiêm trọng và cố ý các quyền cơ bản, trái với luật pháp quốc tế vì lý do bản 
sắc của một nhóm người hay tập thể; 
h. “Phân biệt chủng tộc” là các hành vi vô nhân đạo có tính chất tương tự như các hành vi nói tại khoản 1, được 
thực hiện trong bối cảnh của một chế độ đàn áp và thống trị có hệ thống, bởi một nhóm chủng tộc đối với một hoặc 
nhiều nhóm chủng tộc khác và được thực hiện nhằm duy trì chế độ đó; 
i. “Đưa người đi biệt tích” là việc bắt, giam giữ hoặc bắt cóc người theo lệnh hoặc với sự cho phép, hỗ trợ hay 
đồng tình của một quốc gia hoặc tổ chức chính trị và tiếp đó, từ chối thừa nhận việc tước đoạt tự do hoặc cung cấp thông 
tin về số phận hoặc nơi ở của những người đó, nhằm loại bỏ sự bảo vệ của pháp luật đối với họ trong một thời gian dài. 
3. Trong Quy chế này, thuật ngữ “giới tính” được hiểu là hai giới, nam và nữ trong xã hội. Ngoài ý nghĩa này ra, 
thuật ngữ “giới tính” không mang ý nghĩa nào khác. 
1. Tòa án có quyền tài phán đối với tội ác chiến tranh đặc biệt là khi được thực hiện như một phần trong một kế 
hoạch hoặc chính sách hoặc như một phần của tội ác này được thực hiện trên quy mô lớn. 
2. Trong Quy chế này, thuật ngữ “tội ác chiến tranh” là: 
a. Những vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva 12/8/1949, cụ thể là bất kỳ hành vi nào chống lại người 
hay tài sản được bảo hộ theo các quy định của Công ước Geneva liên quan sau đây: 
i. Cố ý giết người; 
ii. Tra tấn hoặc đối xử vô nhân đạo, kể cả những thí nghiệm sinh học; 
iii. Cố ý gây đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho thân thể hoặc sức khỏe; 
iv. Hủy hoại và chiếm đoạt nhiều tài sản không vì yêu cầu quân sự và được thực hiện một cách bất hợp pháp và 
bừa bãi; 
v. Buộc tù binh chiến tranh hoặc những người được bảo hộ khác phải phục dịch trong quân đội của bên đối địch; 
vi. Cố ý tước đoạt quyền được xét xử công bằng và hợp thức của tù binh hoặc những người được bảo hộ khác; 
vii. Trục xuất, chuyển giao hoặc giam giữ bất hợp pháp; 
viii. Bắt giữ con tin. 
b. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính 
quốc tế trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là: 
i. Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự; 
ii. Cố ý tấn công vào các mục tiêu dân sự, nghĩa là các mục tiêu phi quân sự; 



iii. Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân 
đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng bảo hộ 
như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang; 
iv. Cố ý mở cuộc tấn công mặc dù biết rằng cuộc tấn công đó có khả năng gây thương vong cho thường dân hoặc 
gây hư hại cho các mục tiêu dân sự hoặc làm tổn hại trên diện rộng, lâu dài và nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên 
mà rõ ràng vượt quá mức cần thiết để đạt được ưu thế quân sự dự kiến; 
v. Tấn công hoặc bắn phá, bằng bất kỳ phương tiện nào, các thành phố, làng mạc, nhà cửa hoặc công trình xây 
dựng không được bảo vệ và không phải là mục tiêu quân sự; 
vi. Giết hoặc làm bị thương binh sỹ đã hạ vũ khí hoặc không còn phương tiện tự vệ và đã tự nguyện đầu hàng; 
vii. Sử dụng sai cờ ngừng bắn, cờ hoặc phù hiệu và đồng phục của quân địch hoặc của Liên Hợp Quốc, cũng như 
các biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva, gây chết người hoặc thương tích nghiêm trọng; 
viii. Lực lượng chiếm đóng trực tiếp hay gián tiếp di dời các bộ phận dân cư của mình đến vùng lãnh thổ đang 
chiếm đóng, hoặc trục xuất hay di dời toàn bộ hay các bộ phận dân cư của lãnh thổ bị chiếm đóng trong phạm vi hoặc 
ra ngoài phạm vi lãnh thổ đó; 
ix. Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, 
các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là các 
mục tiêu quân sự. 
x. Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ 
hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của 
người đó, và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ; 
xi. Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho những người thuộc quốc gia hay quân đội đối địch; 
xii. Tuyên bố tuyệt diệt; 
xiii. Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của kẻ thù, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của chiến tranh; 
xiv. Tuyên bố hủy bỏ, đình chỉ hoặc không chấp nhận tại tòa án các quyền và hành vi của công dân bên đối địch; 
xv. Buộc công dân bên đối địch tham gia các hoạt động chiến tranh chống lại chính đất nước họ cho dù họ đã 
phục vụ quân đội của nước tham chiến trước khi bắt đầu chiến tranh; 
xvi. Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công; 
xvii. Sử dụng chất độc hoặc vũ khí có chất độc; 
xviii. Sử dụng hơi ngạt, hơi độc hoặc các loại khí khác, cũng như các loại chất láng, chất liệu hoặc phương tiện 
tương tự khác; 
xix. Sử dụng đầu đạn có khả năng giãn nở hay dàn máng trong cơ thể con người, như đầu đạn có vỏ bọc cứng 
không phủ kín lõi hoặc được khía thủng thành các rạch; 
xx. Sử dụng vũ khí, đạn phóng, vật liệu và các phương pháp chiến tranh có thể gây tổn thương vô ích hoặc đau 
đớn không cần thiết hoặc vốn là sự vi phạm bừa bãi pháp luật quốc tế về xung đột vũ trang, miễn là những vũ khí, đạn 
phóng, vật liệu và phương pháp chiến tranh đó bị cấm hoàn toàn và được ghi trong phụ lục của Quy chế này bằng một 
văn bản sửa đổi phù hợp với các quy định liên quan tại các Điều 121 và 123; 
xxi. Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân cách; 



xxii. Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2 
(f), cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng các 
Công ước Geneva; 
xxiii. Sử dụng sự có mặt của thường dân hoặc những người được bảo hộ khác để tránh các hoạt động quân sự cho 
các vị trí, khu vực hoặc lực lượng quân đội nhất định; 
xxiv. Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng 
phân biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế; 
xxv. Cố ý sử dụng nạn đói của dân thường như một phương pháp tiến hành chiến tranh bằng cách tước đi của họ 
những thứ thiết yếu nhất cho sự sống, kể cả việc cố ý ngăn chặn hàng cứu trợ như được quy định trong các Công ước 
Geneva. 
xxvi. Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng những trẻ em đó 
tích cực tham gia chiến sự. 
c. Những vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Geneva ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung 
đột vũ trang không mang tính quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham 
gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, 
bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác sau đây: 
i. Xâm phạm đến tính mạng và thân thể, cụ thể là giết người dưới mọi hình thức, gây thương tật, đối xử tàn ác và 
tra tấn; 
ii. Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân phẩm; 
iii. Bắt giữ con tin;
iv. Thông qua bản án và thi hành hình phạt mà không có phán quyết trước đó của một tòa án được thành lập hợp 
thức có đủ những bảo đảm tư pháp được thừa nhận là không thể thiếu. 
d. Khoản 2 (c) Áp dụng đối với xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, do vậy không áp dụng đối với tình 
trạng bất ổn và căng thẳng nội bộ như các cuộc bạo động, các hành vi bạo lực đơn lẻ và rời rạc hoặc những hành vi khác 
có tính chất tương tự. 
e. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính 
quốc tế, trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào sau đây: 
i. Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự; 
ii. Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng phân 
biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế; 
iii. Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân 
đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng sự bảo 
hộ như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang; 
iv. Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, 
các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người bị ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là 
các mục tiêu quân sự; 
v. Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm, kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công; 



vi. Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2 (f), 
cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 
chung của bốn Công ước Geneva; 
vii. Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng các trẻ em đó tích 
cực tham gia chiến sự; 
viii. Ra lệnh di dân vì các lý do liên quan đến cuộc xung đột, trừ phi để bảo đảm an toàn cho dân thường hoặc vì 
yêu cầu quân sự cấp bách. 
ix. Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho binh sĩ của bên đối địch; 
x. Tuyên bố tuyệt diệt; 
xi. Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ 
hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của 
người đó và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ; 
xii. Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của bên đối địch, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của cuộc xung đột; 
f. Khoản 2 (e) Áp dụng cho xung đột vũ trang không mang tính quốc tế và do đó không áp dụng đối với tình trạng 
bất ổn và căng thẳng nội bộ như các cuộc bạo động, các hành vi bạo lực đơn lẻ và rời rạc hoặc những hành vi khác có 
tính chất tương tự. Khoản này áp dụng cho các xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ của một Quốc gia khi có xung đột 
vũ trang kéo dài giữa các lực lượng của chính phủ với các nhóm vũ trang có tổ chức hoặc giữa các nhóm này với nhau. 
3. Không một quy định nào ở khoản 2 (c) Và (e) ảnh hưởng đến trách nhiệm của một chính phủ trong việc duy trì 
hoặc tái thiết pháp luật và trật tự trong nước hoặc trong việc bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bằng 
mọi biện pháp hợp pháp. 
1. Các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ trợ giúp Tòa án trong việc giải thích và áp dụng các Điều 6,7,8. Các yếu tố 
này sẽ được thông qua với đa số 2/3 thành viên của Hội đồng Quốc gia thành viên. 
2. Việc sửa đổi Các yếu tố cấu thành tội phạm có thể được đề xuất bởi: 
a. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào; 
b. Các thẩm phán đại diện cho đa số tuyệt đối; 
c. Trưởng Công tố. 
Mọi sửa đổi sẽ được thông qua với đa số 2/3 thành viên của Hội đồng Quốc gia thành viên. 
3. Các yếu tố cấu thành tội phạm và mọi sửa đổi phải phù hợp với Quy chế này. 
Không một quy định nào trong Phần này có thể được giải thích như là giới hạn hay làm phương hại theo bất kỳ 
hình thức nào các quy tắc luật pháp quốc tế đang tồn tại và phát triển vì những mục đích khác ngoài Quy chế này. 
1. Tòa án chỉ có quyền tài phán đối với những tội phạm được thực hiện sau khi Quy chế này có hiệu lực. 
2. Nếu một quốc gia trở thành thành viên của Quy chế này sau khi Quy chế có hiệu lực thì Tòa án chỉ có thể thực 
hiện quyền tài phán đối với những tội phạm xảy ra sau khi Quy chế có hiệu lực đối với Quốc gia đó, trừ phi Quốc gia 
đó đã có tuyên bố theo Điều 12 khoản 3. 
1. Quốc gia trở thành thành viên của Quy chế này thì cũng chấp nhận quyền tài phán của Tòa án đối với các tội 
phạm nêu tại Điều 5. 



2. Trong trường hợp quy định tại Điều 13 khoản (a) Hoặc (c), Tòa án có thể thực hiện quyền tài phán nếu một 
hoặc nhiều quốc gia sau khi là thành viên của Quy chế này hoặc đã chấp nhận quyền tài phán của Tòa án theo quy định 
tại khoản 3: 
a. Quốc gia mà trên lãnh thổ có tội phạm xảy ra hoặc Quốc gia nơi đăng ký tàu thuyền hoặc tàu bay, nếu tội phạm 
được thực hiện trên tàu thuyền hay tàu bay; 
b. Quốc gia mà người bị buộc tội là công dân. 
3. Nếu sự chấp nhận của Quốc gia phi thành viên Quy chế này là cần thiết theo quy định tại khoản 2, Quốc gia đó 
có thể gửi tuyên bố cho Chánh Lục sự về việc chấp nhận quyền tài phán của Tòa án đối với tội phạm liên quan. Quốc 
gia chấp nhận quyền tài phán sẽ hợp tác với Tòa án mà không có bất kỳ sự chậm trễ hoặc ngoại lệ nào, theo các quy 
định tại Phần 9. 
Tòa án có thể thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm nêu tại Điều 5 theo các quy định của Quy chế này 
nếu: 
1. Một vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm nêu trên đã xảy ra được Quốc gia thành viên thông báo cho 
Trưởng Công tố theo quy định tại Điều 14; 
2. Một vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm nêu trên đã xảy ra được Hội đồng bảo an thông báo cho Trưởng 
Công tố theo thẩm quyền quy định tại Chương VII Hiến chương Liên Hợp Quốc; 
3. Trưởng Công tố đã mở điều tra đối với tội phạm đó theo quy định tại Điều 15. 
1. Quốc gia thành viên có thể thông báo cho Trưởng Công tố về một vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm 
thuộc quyền tài phán của Tòa án đã xảy ra, yêu cầu Trưởng Công tố điều tra để xác định những cá nhân phải chịu trách 
nhiệm về việc thực hiện các tội phạm đó. 
2. Thông báo phải nêu cụ thể đến mức tối đa về các tình tiết liên quan và phải kèm theo các tài liệu bổ trợ mà 
Quốc gia thông báo đang có. 
1. Trưởng Công tố có thể tự mình mở điều tra căn cứ vào thông tin về các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa 
án. 
2. Trưởng Công tố phải phân tích tính xác thực của thông tin nhận được. Vì mục đích đó, Trưởng Công tố có thể 
tìm kiếm thông tin bổ sung từ các Quốc gia, cơ quan của Liên Hợp Quốc, các tổ chức liên hoặc phi chính phủ hoặc từ 
các nguồn đáng tin cậy khác mà Trưởng Công tố thấy thích hợp, và có thể lấy lời khai bằng văn bản hoặc bằng lời tại 
trụ sở Tòa án. 
3. Nếu Trưởng Công tố kết luận có đủ căn cứ tiến hành điều tra thì Trưởng Công tố gửi văn bản đề nghị Hội đồng 
Dự thẩm cho phép điều tra kèm theo các tài liệu đã thu thập được. Người bị hại có thể trình bày trước Hội đồng Dự thẩm 
theo Quy tắc về thủ tục và chứng cứ. 
4. Nếu sau khi xem xét đề nghị và các tài liệu kèm theo mà thấy rằng có đủ căn cứ tiến hành điều tra và vụ việc 
thuộc quyền tài phán của Tòa án, Hội đồng Dự thẩm sẽ cho phép mở điều tra. Việc cho phép này không ảnh hưởng đến 
các quyết định sau này của Tòa án về quyền tài phán và khả năng thụ lý vụ việc. 
5. Việc Hội đồng Dự thẩm từ chối cho phép điều tra không ảnh hưởng đến việc Trưởng Công tố gửi văn bản đề 
nghị tiếp theo, căn cứ vào các sự kiện hoặc chứng cứ mới về cùng một vụ việc. 
6. Nếu sau khi xem xét sơ bộ như quy định tại khoản 1 và 2 mà Trưởng Công tố kết luận thông tin nhận được 
không đủ căn cứ hợp lý để tiến hành điều tra, Trưởng Công tố sẽ thông báo cho người đã cung cấp thông tin. Điều này 
không cản trở Trưởng Công tố xem xét những thông tin mới nhận được về cùng một vụ việc với các sự kiện hoặc chứng 
cứ mới. 



Việc điều tra hoặc truy tố theo Quy chế này sẽ không được bắt đầu hoặc tiếp tục tiến hành trong thời hạn 12 tháng 
sau khi Hội đồng bảo an, thông qua một nghị quyết theo Chương VII Hiến chương Liên Hợp Quốc, yêu cầu Tòa án như 
vậy. Yêu cầu này có thể được Hội đồng bảo an gia hạn theo cùng điều kiện. 
1. Căn cứ quy định tại đoạn 10 của Lời nói đầu và Điều 1, Tòa án quyết định không thụ lý vụ việc nếu: 
a. Vụ việc đang được một Quốc gia có quyền tài phán điều tra hoặc truy tố, trừ khi Quốc gia đó không muốn hoặc 
không đủ khả năng tiến hành điều tra hoặc truy tố một cách thực sự; 
b. Vụ việc đã được một Quốc gia có quyền tài phán điều tra, và Quốc gia này đã quyết định không truy tố cá nhân 
liên quan, trừ khi quyết định đó xuất phát từ việc Quốc gia này không muốn hoặc không đủ khả năng truy tố một cách 
thực sự; 
c. Cá nhân liên quan đã bị xét xử về chính hành vi nêu trong đơn khiếu nại và Tòa án không được phép xét xử 
theo quy định tại Điều 20 khoản 3; 
d. Vụ việc không đủ mức nghiêm trọng cần Tòa án giải quyết. 
2. Để xác định việc một Quốc gia không muốn điều tra, truy tố trong một trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ, căn cứ 
vào các nguyên tắc tố tụng được thừa nhận trong luật quốc tế, xem xét có tồn tại một hoặc những yếu tố sau hay không: 
a. Thủ tục tố tụng đã hoặc đang được tiến hành hoặc quyết định của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó 
là nhằm bao che cho cá nhân liên quan khỏi trách nhiệm hình sự về những tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án 
nêu tại Điều 5; 
b. Có sự trì hoãn vô lý trong việc tiến hành thủ tục tố tụng, trái với mục đích đưa cá nhân liên quan ra trước công 
lý; 
c. Thủ tục tố tụng đã hoặc đang không được tiến hành độc lập hoặc công bằng hay đã hoặc đang được tiến hành 
theo cách thức trái với mục đích đưa cá nhân liên quan ra trước công lý. 
3. Để xác định việc một quốc gia không có khả năng điều tra, truy tố trong một trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ xem 
xét có phải do hệ thống tư pháp quốc gia bị sụp đổ hoàn toàn hay phần lớn hoặc do không có hệ thống tư pháp mà Quốc 
gia đó không thể bắt giữ được người bị buộc tội hoặc thu thập được các chứng cứ và lời khai cần thiết hoặc không thể 
tiến hành tố tụng được hay không. 
1. Khi một vụ việc được thông báo cho Tòa án theo Điều 13 (a) Và Trưởng Công tố đã xác định có đủ căn cứ hợp 
lý để mở điều tra, hoặc Trưởng Công tố đã mở điều tra theo Điều 13 (c) Và Điều 15, thì Trưởng Công tố sẽ thông báo 
cho tất cả các Quốc gia thành viên và những Quốc gia mà căn cứ vào thông tin hiện có, thông thường sẽ thực hiện quyền 
tài phán đối với tội phạm liên quan. Trưởng Công tố có thể thông báo cho các Quốc gia này trên cơ sở bảo mật thông 
tin, và nếu cho rằng cần phải bảo vệ người liên quan, ngăn chặn việc tiêu hủy chứng cứ hoặc ngăn chặn khả năng người 
liên quan bỏ trốn, Trưởng Công tố có thể hạn chế phạm vi thông tin cung cấp cho các Quốc gia đó. 
2. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày nhận được thông báo trên, Quốc gia liên quan có thể thông báo cho Tòa 
án là đang hoặc đã điều tra các công dân của mình hoặc những người khác, trong phạm vi quyền tài phán quốc gia, về 
các hành vi tội phạm có thể cấu thành các tội nêu tại Điều 5 và liên quan đến thông tin đề cập trong thông báo cho các 
Quốc gia. Theo đề nghị của Quốc gia đó, Trưởng Công tố sẽ để quốc gia đó tiến hành điều tra những người này, trừ phi 
Hội đồng Dự thẩm quyết định cho phép Trưởng Công tố điều tra theo đề nghị của Trưởng Công tố. 
3. Việc để quốc gia tiến hành điều tra có thể được Trưởng Công tố xem xét lại trong thời hạn 6 tháng sau ngày 
chấp nhận để quốc gia tiến hành điều tra hoặc vào bất kỳ thời điểm nào nếu tình hình có sự thay đổi quan trọng do việc 
Quốc gia đó không muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành điều tra thực sự. 
4. Quốc gia liên quan hoặc Trưởng Công tố có thể kháng cáo lên Hội đồng Phúc thẩm về quyết định của Hội đồng 
Dự thẩm theo quy định tại Điều 82. Việc kháng cáo được giải quyết theo thủ tục rút gọn. 



5. Khi Trưởng Công tố đã chuyển việc điều tra cho quốc gia như nêu tại khoản 2, Trưởng Công tố có thể yêu cầu 
Quốc gia đó thông báo định kỳ cho Trưởng Công tố về tiến độ điều tra và việc truy tố sau đó. Các Quốc gia thành viên 
sẽ thực hiện yêu cầu này một cách không chậm trễ. 
6. Trong thời gian chờ quyết định của Hội đồng Dự thẩm hoặc vào bất cứ thời điểm nào sau khi đã chuyển việc 
điều tra cho quốc gia theo quy định tại Điều này, trong trường hợp đặc biệt, Trưởng Công tố có thể xin phép Hội đồng 
Dự thẩm cho tiến hành một số bước điều tra cần thiết để bảo toàn chứng cứ nếu có cơ hội duy nhất để thu thập những 
chứng cứ quan trọng hoặc có nguy cơ lớn là sau này chứng cứ đó sẽ không còn. 
7. Quốc gia đã khiếu nại quyết định của Hội đồng Dự thẩm theo điều này có thể khiếu nại vấn đề thụ lý vụ việc 
theo quy định tại Điều 19 trong trường hợp có thêm những sự kiện bổ sung quan trọng hoặc tình hình có những thay đổi 
quan trọng. 
1. Tòa án tự xác định về quyền tài phán của mình đối với bất kỳ vụ việc nào được đưa ra Tòa. Tòa án có thể tự 
mình quyết định việc thụ lý theo quy định tại Điều 17. 
2. Khiếu nại về việc thụ lý theo các căn cứ nêu tại Điều 17 hoặc khiếu nại đối với quyền tài phán của Tòa án có 
thể được đưa ra bởi: 
a. Người bị buộc tội hoặc người được tống đạt lệnh bắt giữ hoặc triệu tập theo Điều 58; 
b. Quốc gia có quyền tài phán đối với vụ việc với lý do Quốc gia đó đã hoặc đang tiến hành điều tra hay truy tố 
vụ việc đó; 
c. Quốc gia cần có sự chấp nhận về quyền tài phán theo yêu cầu tại Điều 12. 
3. Trưởng Công tố có thể đề nghị Tòa án ra quyết định liên quan đến quyền tài phán hoặc thụ lý vụ việc. Trong 
quá trình tố tụng liên quan đến quyền tài phán hoặc thụ lý, những người thông báo vụ việc cho Trưởng Công tố nói tại 
Điều 13 cũng như người bị hại cũng có thể trình bày ý kiến với Tòa án. 
4. Những người hoặc Quốc gia nêu tại khoản 2 chỉ có thể được khiếu nại về vấn đề thụ lý vụ việc và quyền tài 
phán của Tòa án một lần. Việc khiếu nại phải được tiến hành trước hoặc vào thời điểm mở phiên toà. Trong trường hợp 
ngoại lệ, Tòa án có thể cho phép khiếu nại nhiều lần hoặc sau khi mở phiên toà. Việc khiếu nại đối với vấn đề thụ lý tại 
thời điểm mở phiên tòa hoặc sau đó với sự cho phép của Tòa án chỉ có thể căn cứ theo quy định tại Điều 17 khoản 1 (c). 
5. Quốc gia nói tại khoản 2 (b) Và (c) Phải tiến hành khiếu nại trong thời gian sớm nhất. 
6. Trước khi lời buộc tội được xác nhận, những khiếu nại đối với việc thụ lý hoặc quyền tài phán của Tòa án sẽ 
được chuyển đến Hội đồng Dự thẩm. Sau khi lời buộc tội được xác nhận, những khiếu nại này sẽ được chuyển cho Hội 
đồng Sơ thẩm. Quyết định liên quan đến quyền tài phán hoặc thụ lý có thể bị kháng cáo lên Hội đồng Phúc thẩm theo 
quy định tại Điều 82. 
7. Nếu khiếu nại do Quốc gia nêu tại khoản 2 (b) Hoặc (c) Đưa ra thì Trưởng Công tố phải đình chỉ điều tra cho 
đến khi Tòa án ra quyết định theo Điều 17. 
8. Trong khi chờ quyết định của Tòa án, Trưởng Công tố có thể đề nghị Tòa án cho phép: 
a. Tiến hành các bước điều tra cần thiết nêu tại Điều 18 khoản 6; 
b. Lấy lời khai của người làm chứng hoặc hoàn tất việc thu thập và kiểm tra chứng cứ đã được tiến hành trước khi 
có khiếu nại; 
c. Hợp tác với các Quốc gia liên quan để ngăn chặn việc bỏ trốn của người mà Trưởng Công tố đã yêu cầu ra lệnh 
bắt giữ theo Điều 58. 


10 
9. Việc khiếu nại không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của bất kỳ hành động nào do Trưởng Công tố thực hiện 
hoặc bất kỳ quyết định hoặc lệnh nào do Tòa án đưa ra trước khi có khiếu nại đó. 
10. Nếu Tòa án quyết định không thụ lý vụ việc theo quy định tại Điều 17 thì Trưởng Công tố có thể yêu cầu Tòa 
án xem xét lại quyết định đó nếu có cơ sở cho rằng những sự kiện mới phát sinh đã phủ định căn cứ mà trước đó được 
dùng để xác định không thụ lý vụ việc theo Điều 17. 
11. Nếu Trưởng Công tố hoãn điều tra theo những căn cứ nêu ở Điều 17 thì Trưởng Công tố có thể yêu cầu Quốc 
gia liên quan cung cấp thông tin về quá trình tố tụng. Những thông tin đó sẽ được bảo mật theo yêu cầu của Quốc gia 
liên quan. Nếu sau đó Trưởng Công tố quyết định tiếp tục điều tra thì phải thông báo cho Quốc gia nơi đình hoãn tố 
tụng. 
1. Trừ phi được quy định trong Quy chế này, không ai bị Tòa án xét xử về một hành vi cấu thành tội phạm mà 
người đó đã bị Tòa án kết án hoặc tuyên bố vô tội. 
2. Không ai bị xét xử bởi một tòa án khác về một tội phạm nêu tại Điều 5 mà người đó đã bị Tòa án kết án hoặc 
tuyên bố vô tội. 
3. Không ai đã bị xét xử bởi một Tòa án khác về hành vi nêu tại các Điều 6,7,8 sẽ bị Tòa án xét xử về cùng hành 
vi đó, trừ phi quá trình tố tụng tại tòa án đó: 
a. Nhằm bao che cho người liên quan khỏi trách nhiệm hình sự về các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án; 
Hoặc 
b. Không được tiến hành một cách độc lập và khách quan theo các chuẩn mực tố tụng được thừa nhận trong luật 
quốc tế và được tiến hành theo cách thức trái với mục đích đưa cá nhân liên quan ra trước công lý. 
1. Tòa án sẽ áp dụng: 
a. Trước hết, Quy chế này, Các yếu tố cấu thành tội phạm và Quy tắc về Thủ tục và Chứng cứ của Quy chế; 
b. Kế đó, Các điều ước quốc tế, các nguyên tắc và quy tắc của luật pháp quốc tế có thể áp dụng, kể cả các nguyên 
tắc của luật quốc tế về xung đột vũ trang, nếu xét thấy thích hợp; 
c. Nếu chưa đủ, Các nguyên tắc pháp luật chung mà Tòa án vận dụng từ luật quốc gia của các hệ thống pháp luật 
trên thế giới, kể cả luật của các Quốc gia thông thường sẽ thực hiện quyền tài phán đối với tội phạm nói trong Quy chế 
này nếu thích hợp, với điều kiện các nguyên tắc đó không trái với Quy chế này và pháp luật quốc tế cũng như các quy 
phạm và chuẩn mực được quốc tế thừa nhận. 
2. Tòa án có thể áp dụng các nguyên tắc và quy tắc pháp luật đã được giải thích trong các quyết định trước đây 
của mình. 
3. Việc áp dụng và giải thích luật theo Điều này phải phù hợp với các quyền con người đã được quốc tế thừa nhận 
và không được mang tính phân biệt đối xử về giới tính nêu tại Điều 7 khoản 3, độ tuổi, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, 
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan điểm về chính trị hoặc về vấn đề khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, 
thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác. 
1. Không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này, trừ phi hành vi của người đó cấu thành một tội phạm 
thuộc quyền tài phán của Tòa án vào thời điểm thực hiện hành vi đó. 
2. Định nghĩa tội phạm phải được giải thích một cách nghiêm ngặt và không được mở rộng theo phép loại suy. 
Trường hợp có nội dung không rõ ràng, định nghĩa đó phải được giải thích theo hướng có lợi cho người đang bị điều 
tra, truy tố hoặc kết tội. 

tải về 429.44 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương