Quà Tặng Cuộc Đời Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương



tải về 0.79 Mb.
trang1/14
Chuyển đổi dữ liệu04.10.2016
Kích0.79 Mb.
#32609
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
Quà Tặng Cuộc Đời

Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương



Ayya Khema

Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn

Dịch từ tiếng Anh: Diệu Đạo

---o0o---

Nguồn

http://www.quangduc.com

Chuyển sang ebook 30-8-2009

Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com

Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục


Chương 1 - Vòng Trầm Luân

Chương 2 - Thời Thơ Ấu ở Bá Linh

Chương 3 - Cuộc Sống Tha Hương

Chương 4 - Thời Chiến Tranh ở Thượng Hải

Chương 5 - Thế Giới Mới, Cách Sống Mới

Chương 6 - Thám Hiểm Trung Mỹ Bằng Xe Jeep

Chương 7 - Thám Hiểm Nam Mỹ

Chương 8 - Trên Đảo Indus

Chương 9 - Cuộc Sống Tự Do

Chương 10 - Con Đường Của Riêng Tôi

Chương 11 - Bắt Đầu Cuộc Sống Nơi Tu Viện

Chương 12 - Ilse Trở Thành Ayya Khema

Chương 13 - Đảo Của Các Ni

Chương 14 - Ngôi Nhà Phật Ở Allgau

Chương 15 - Cái Chết An Lành


---o0o---


Chương 1 - Vòng Trầm Luân

Từ Bá Linh, thành phố nơi tôi sinh ra đến trung tâm Buddha-Haus (Nhà Phật) ở Allgau, nơi tôi đang trú ngụ, rất xa. Thật ra khoảng cách không gian giữa hai nơi chỉ có chín trăm kilomét, nhưng giữa hai khoảng cách đó là cả cuộc đời tôi. Năm mười lăm tuổi, tôi phải rời bỏ nứơc Đức ra đi vì tánh mạng người Do Thái ở Đức lúc ấy luôn bị đe dọa, khiến tôi không còn lựa chọn nào khác. Giờ tôi đã bảy mươi bốn tuổi đời, lại khoát trên người màu áo nâu quen thuộc của một sư cô Phật giáo.


Tôi đã chứng kiến, đã sống nhiều qua những năm tháng đó, và cuộc hành trình tôi đã chọn giúp tôi tìm đưọc sự thanh thản, để có thể tha thứ cho tất cả những gì đã xảy ra cho tôi và gia đình tôi. Dấu mốc đó giúp tôi hoàn tất vòng trầm luân của mình. Tôi đã đến đưọc điểm cuối của cuộc hành trình ở thế giới bên ngoài và cuộc hành trình nội tâm, để về lại với quê hương ban đầu của mình.
Bạn bè, đồng nghiệp, đệ tử của tôi đã nhiều lần yêu cầu tôi viết hồi ký. Tôi luôn từ chối, vì nghĩ đã là tăng ni thì phải lo truyền giảng giáo lý của Đức Phật, không nên lo nói về mình.
Nhưng cuối cùng tôi đã chấp thuận. Tôi đã để họ thuyết phục tôi rằng biết đâu chính câu chuyện đời tôi có thể là một động lực thúc đẩy người khác đi theo con đường tôi đã đi. Không kể những hoàn cảnh ngoại lệ, đây chỉ là câu chuyện của một phụ nữ bình thường, sống bao nhiêu năm trong thế giới trần lao tầm thường, nhưng đến một ngày, người phụ nữ đó đã thoát ra đưọc, để tiến lên một đời sống cao cả hơn.
Cuộc đời của tôi đầy những phiêu lưu bất ngờ. Nhưng những điều đó không do tôi chọn lựa. Hồi tưởng lại, tôi nhận thấy mình chẳng có quyền lực gì đối với tất cả những gì đã xảy ra. Tất cả mọi việc đều đã đưọc sắp đặt cho tôi, tôi chỉ tuân theo dòng chảy.
Trong cuộc đời nầy, tôi đã đóng rất nhiều vai trò: tôi đã từng là một cô bé rất đưọc nuông chiều, che chở; một cô gái trẻ nhút nhát ở xứ lạ quê người; một thiếu nữ cô đơn trên chuyến tàu hàng đến Thượng Hải; tôi đã từng làm vợ, làm mẹ, làm người du lịch khắp năm châu, làm nhà nông, và cuối cùng là một nữ tu sĩ Phật giáo.
Đã có khoảng thời gian tôi sống phong lưu trong một ngôi nhà thuộc ngoại thành, ở tiểu bang California với vườn tược, nhà để xe và cả máy rửa chén trong bếp.
Rồi có lúc, tôi chu du khắp quả địa cầu: Bắc Mỹ, Aán độ, Pakistan, Nepal, Kashmir, Hunza. Đó là khoảng thời gian tôi đang đi tìm một cái gì đó mà chính tôi cũng không biết, và tôi cũng không biết rằng mãi, mãi về sau tôi mới tìm đưọc.
Tôi đi làm ở một ngân hàng ở Los Angeles, nhưng lại có nông trại ở Uùc, nơi chúng tôi nuôi lọai ngựa Shetland. Theo tôi, một chú ngựa con Shetland mới sinh, hơi lớn hơn con chó một ít, là con vật dể thương nhất thế giới.
Tất cả giờ đã qua; đã là quá khứ, và chỉ còn trong kỷ niệm. Có lẻ những sự đổi thay, mất mát nầy đã giúp tôi thấy sự cần thiết của xã ly. Đối với tôi, biểu tượng sống động nhất của việc xả ly là cắt bỏ mái tóc của mình, mười tám năm về trước khi tôi quyết định trở thành người tu. Mái tóc dầy, thướt tha, đen bóng đó đã đưọc cạo bỏ đến tận da đầu. Theo phong tục cổ truyền, tôi cầm một nắm tóc trong tay suy gẫm về tính huyển hóa của thân. Sau đó tôi bỏ nắm tóc đi không thương tiếc, thật ra tôi còn cảm thấy nhẹ nhỏm là khác. Bớt đi một thứ để bám víu.
Giờ tôi xin bắt đầu câu chuyện của đời tôi, mà tôi gọi là Quà Tặng Cuộc Đời (I Give You My Life), vì tôi có cảm tưởng mình đang gửi gắm tâm sự riêng tư đến với từng người đọc. Tôi hy vọng là bạn cũng sẽ đọc nó với một tấm lòng.
Mổi chương đưọc bắt đầu bằng những vần thơ mà tôi nghĩ là có thể minh hoạ cho giai đoạn đó của đời tôi. Những vần thơ đưọc lấy từ Kinh Pháp Cú (Dhammapada), là một tập hợp những lời Đức Phật giáo huấn chúng sanh. Những lời nói đầy trí tuệ nầy đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều. (LND: Ở đây căn bản, tôi dựa vào cuốn Kinh Pháp Cú, của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1993).
Tôi muốn câu chuyện đời tôi sẽ là món quà từ trái tim tôi gửi đến cho bạn đọc.
Tháng 3, 1997

Ayya Khema

Buddha-Haus, Allgau
---o0o---

Chương 2 - Thời Thơ Ấu ở Bá Linh

Chẳng phải nhờ cha mẹ

Hay thân bằng quyến thuộc

Nhưng chính tâm hướng thiện

Giúp ta tốt hơn lên.

Kinh Pháp Cú - 43


Tôi sinh ngày hai mươi lăm, tháng 8, 1923. Cha mẹ tôi, Theodor Kussel và Lizzi Rosenthal, đã đặt tên tôi là Ilse. Theo tử vi phương tây, tôi là một Virgo (Trinh Nữ). Tuy nhiên qua năm tháng, những đặc tính của Trinh Nữ (Virgo) -tận tụy, chăm chỉ, hiểu biết- đã chuyển đổi thành những đặc tính háo thắng của Sư Tử (Leo). Tôi đã biến thành một con sư tử (Leo).
Thế giới thượng lưu tôi đã đưọc sinh vào, ngày hôm nay không còn nữa. Chúng tôi từng sống trong một ngôi nhà có mười hai phòng gần một sở thú -một khu vực dân cư đẹp nhất ở tây Bá Linh. Chúng tôi có người nấu ăn, có kẻ giúp việc, một bảo mẫu và một anh tài xế lái xe đưa tôi đi học. Các bữa ăn thường đưọc cô giúp việc mặc áo đen, choàng apron trắng, có cột dây ở phía sau, dọn lên. Vách tường đưọc lót giấy hoa, ghế bọc nhung, sàn trãi thảm Ba Tư, các bộ trà đều bằng bạc. Mổi ba tháng, một toán thợ lại đến nhà để lau chùi các bóng đèn thủy tinh.
Tôi kể cho các bạn nghe những điều nầy vì một hoàn cảnh sống như thế đã tạo cho tôi aỏ tưởng là không có gì bất hạnh sẽ có thể xảy ra cho tôi: "Tất cả mọi thứ đều bảo đảm; thế giới đầy yên ổn, đẹp đẽ". Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác nầy rất rõ. Nhưng chẳng lâu sau đó, tôi biết tất cả chỉ là hư ảo.
Cha tôi là một nhà bán chứng khoáng ở thị trường chứng khoáng Bá Linh. Ở đó chỉ có bảy nhà chứng khoáng tự định ra giá cả của các cổ phần dựa vào cung cầu, do đó họ rất có ảnh hưởng. Đó là một dịch vụ dân sự. Có lần tôi hỏi cha: "Cha, gia đình mình có giàu không?". Oâng trã lời tôi, "Rất khá, có thể nói là giàu".
Một ngày kia, cha đặt tôi ngồi lên gối của người và nói với dáng buồn bả: "Con cưng oi, nhưng gia đình ta là người Do Thái". Tôi hỏi ông, "Điều đó có gì xấu không?" Oâng trã lời: "Bình thường thì không sao, nhưng hiện tại thì không hay". Đó là lần đầu tiên tôi đưọc biết rằng chúng tôi là người Do Thái, một điều rất đặc biệt. Vì cho đến lúc đó, không có ai nói gì về đạo Do Thái trong gia đình tôi. Cha mẹ tôi là những người đưọc coi là cấp tiến. Những người Do Thái cấp tiến không quan tâm lắm về các truyền thống của người Do Thái chính thống. Họ đã hoàn toàn hòa nhập vào môi trường quanh họ, đã không khác gì mọi người chung quanh. Có người còn rửa tội, biến thành người Công giáo hay Tin lành. Riêng gia đình tôi, chúng tôi không đi xa đến thế, có lẻ vì cha mẹ tôi không coi tôn giáo là quan trọng.
Họ tự coi họ là người Đức. Cha tôi đã nhận đưọc huân chương anh dũng bội tinh trong thế chiến thứ I, và ông rất hảnh diện về điều đó. Oâng đã nói với tôi rằng ngài Frederick Vĩ đại của Prussia đã dẩn dắt người Do Thái ra khỏi chốn tối tăm. Họ muốn sống đâu cũng đưọc. Như thế, có nghĩa là mọi người có quyền theo đuổi hạnh phúc riêng của mình. Có thể đó là lý do tại sao người Do Thái quá sốt sắng để hoà nhập vào tầng lớp thượng lưu. Họ rất trung thành với xứ sở, đó là cách bày tỏ lòng biết ơn của họ.
Tôi còn nhớ rất rõ cha tôi thường nói thật là hạnh phúc đưọc sống an ổn trong một xứ sở như nước Đức. Có lẻ đó là lúc tôi còn rất nhỏ khi ông nói những lời nầy, vì chẳng bao lâu sau đó, mọi việc đều đổi thay, hoàn toàn đổi thay.
Oâng ngoại tôi có một tiệm bán quần áo trẻ con ở Bá Linh, trên góc đường Rankestrasse - Taurentzienstrasse, đối diện với nhà thờ Kaiser Wilhelm, mà nay là đài tưởng niệm hoà bình, vì một phần của nhà thờ còn lại sau trận bom đưọc coi là chứng tích của chiến tranh.
Năm ngoái, sau bao tháng năm, tôi trở lại thăm Bá Linh lần đầu tiên, tôi đã đi tìm ngôi nhà đó. Nhưng nó không còn nữa. Tôi cũng không thể tìm ra ngôi nhà tôi đã từng sống với cha mẹ. Có thể nói, thời thơ ấu của tôi đã bị xoá đi, không để lại dấu tích gì. Không còn gì để tôi trở lại nữa. Không còn mồ mả. Có lẻ vì thế mà hình ảnh đứa bé gái trong những bức hình tôi tìm lại đưọc có vẻ xa lạ quá. Đó là một đứa trẻ bụ bẫm với gương mặt tròn trịa -với đôi gò má hồng hào, tôi còn nhớ như thế. Tôi vẫn còn nhớ cho đến ngày hôm nay.
Trước cửa tiệm bán quần áo trẻ con Jakob Rosenthal có bến xe ngựa. Mổi thứ bảy, ông tôi thường chở tôi đến sở thú trong những cổ xe ngựa như thế. Ở sở thú, họ thường bày các con thú ra biểu diển cho trẻ em xem. Trẻ con có thể chọn cưỡi mấy con vật nầy. Tôi hay chọn cưỡi voi (vì tôi thấy rất thích khi đưọc ngồi trên cao chót vót, lúc la lúc lắc như đang trên tàu ra biển), đôi khi tôi chọn cưỡi dê. Cũng rất vui. Ngoài ra, ở sở thú người ta còn bày ra những cái máy, bỏ tiền vào thì mua đưọc một viên kẹo. Sau khi ra khỏi sở thú, ông tôi cũng lại chở tôi về trên các cổ xe ngựa đó. Những buổi chiều thứ bảy đưọc đi chơi với ông đối với tôi thật hạnh phúc. Mẹ tôi là con gái duy nhất của ông, nên ông cũng chỉ có tôi là cháu. Oâng rất thương tôi và tôi cũng rất thương ông.
Trong tiệm của ông, ở bàn làm việc, loại bàn thật cao, có tấm biển đề: "Không cần biết bạn đã làm gì, nhưng bạn đã sai". Có lần tôi hỏi ông câu đó hàm ý gì. Oâng trã lời: "Có nghĩa là ta không thể làm vừa ý hết mọi người".
Oâng tôi là người vui vẻ, yêu đời. Khi ông mất, thế giới của tôi lần đầu tiên bị xáo trộn. Hôm ấy tôi đến nhà ông bà ăn trưa như mọi ngày chủ nhật khác. Sau buổi ăn, ông đi nằm và không bao giờ trở dậy nữa. Người ta bảo với tôi là ông đã đi ngủ. Bà tôi không thể chịu đựng nổi sự mất mát đó. Hai năm sau bà cũng ra đi.
Sau nầy chúng tôi nói, "Thật may". Thật may là nó đã xảy ra đúng lúc. Năm ông tôi mất là năm 1933, khi tôi vừa đưọc mười tuổi.
Tôi tiếp tục sống trong ảo tượng về một thế giới an toàn một thời gian nữa. Nếu cha mẹ tôi có điều lo lắng, họ không bao giờ nói trước mặt tôi. Tôi theo học trường tư và sau đó vào trường trung học tiểu bang Augusta Lyceum. Tôi vẫn thường tổ chức sinh nhật của mình với bè bạn, và cô đầu bếp, Flora Brambor, vẫn là chủ trong nhà bếp. Tôi thường trêu ghẹo gọi chệch tên cô vì cô không cho tôi vào vương quốc của cô.
Vào thế vận hội Olympics năm 1936, tôi đưọc thấy Adolf Hitler lần đầu tiên, rất cận. Cha tôi có vé cho mọi chương trình biểu diển ở sân vận động Olympic. Khi cha không có thì giờ đi, tôi thường thế chổ cha. Đó là một chổ ngồi rất tốt, không xa mấy chổ của Hitler.
Dầu tôi đã quên rất nhiều thứ trong thời thơ ấu, tôi vẫn không thể quên đưọc buổi chiều hôm ấy. Nhất là tôi không thể quên đưọc những âm thanh vang dội bên tai khi hàng ngàn người đồng thanh hô lên: "Heil Hitler!" (Chào Hitler!). Mọi người đều đứng dậy, vung tay lên cao trong không khí. Chỉ có tôi ngồi yên trên ghế. Vì là người Do Thái, tôi không đưọc quyền chào ông. Đồng thời tôi cũng cảm thấy sợ hãi khi nghĩ rằng người ta có thể kéo lôi tôi ra khỏi ghế vì đã không tôn trọng Hitler. Cũng may tôi chỉ là đứa trẻ, nên không ai để ý đến tôi.
Adolf Hitler đứng lên chào đám đông, rồi tuyên bố vài lời vào cái loa. Cách ông ta phát biểu, dằn từng tiếng, và giọng nói hùng hồn làm tôi càng thêm sợ hãi. Tôi cảm thấy một mối đe dọa trùm phủ cả người tôi.
Sau thế vận hội Olympics, chính sách của chính quyền đối với người Do Thái càng ngày càng trở nên khắc khe. Người Do Thái không còn đưọc giữ chức vụ dân sự nữa, vì thế cha tôi không còn đưọc làm ở thị trường chứng khoáng. Lúc đầu, ông vẫn đưọc tiếp tục làm việc với tính cách là người thầu độc lập, nhưng tiền thu nhập đã giảm rất đáng kể.
Chúng tôi phải dọn đến căn hộ nhỏ hơn, phải bán xe và cho người tài xế thôi việc. Thêm nữa, người Do Thái không đưọc mướn người không phải là Do Thái. Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải cho cô đầu bếp và cô giúp việc nghỉ làm. Tiếp đến trẻ con Do Thái không đưọc đi học cùng trường với trẻ con khác. Nên tôi phải chuyển qua trường Do Thái đưọc thành lập để chữa cháy cho hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Thành thật mà nói, việc đổi trường đối với tôi không quan trọng. Nhưng điều quan trọng mà tất cả bà con, bạn bè chúng tôi nói đến là di dân. Đó là đề tài hấp dẩn hơn là chuyện học hành: chúng tôi có cần dọn đi không, nếu cần, chúng tôi sẽ đi đâu? Đến Czech, nơi dượng Leo của tôi đang sống hay đi đâu?
Dượng tôi, Leo Kestenberg, cưới em của ba tôi. Dượng là Bộ trưởng về Giáo dục Aâm nhạc Czech, có nghĩa là dượng là công chức của chính phủ, và giờ cũng vì những lý do tương tự, dượng đã bị mất chức. Dượng đã từng là thầy dạy piano của Yehudi Menuhin, và cũng dự tính dạy tôi đàn. Có lần khi chúng tôi đến viếng thăm dượng, dượng đã chơi một bài trên piano để tặng tôi. Lúc đó đáng lý ra tôi phải lập lại theo dượng, nhưng tôi không làm đưọc. Nên dượng cho là tôi bị điếc âm thanh, không học đưọc đờn piano.
Czech cũng không phải là một lựa chọn tốt -vì như chúng ta đều biết, không lâu sau bọn Đức quốc xã lại lần đến đó. Dượng Leo chạy thoát qua đưọc Do Thái cùng với gia đình. Ở đó dượng thành lập dàn nhạc Người Do Thái Yêu Aâm Nhạc (Israeli Philharmonic Orchestra). Dượng là một trong số ít thân nhân của tôi đã thoát khỏi cuộc tàn sát người Do Thái, dượng và mợ tôi Grete cùng các con gái.
Cha tôi đã có suy nghĩ sai lầm là Hitler sẽ không thể tồn tại lâu ở Đức với chính sách tàn sát người Do Thái như thế. Cha cho rằng một dân tộc đã sản sinh ra những Goethe, Schiller, Kant và Nietzche, Bach, Beethoven -là những người cực kỳ tài hoa, trí tuệ- dân tộc đó sẽ không cho phép bất cứ chính phủ nào đưa nó đến những hành động dã man như thế. Và cha cũng không phải là người duy nhất suy nghĩ như thế. Có rất nhiều người cũng nói: "Dỉ nhiên đó chỉ là những tin đồn phóng đại. Chúng ta sẽ ở lại; dầu gì đi nữa đây cũng là quê hương của chúng ta; tóm lại, tất cả chúng ta đều là dân Đức".
Sau đó là đến cái gọi là thuế dành cho người Do Thái. Theo luật thì đây là một loại thuế mà người Do Thái phải trả cho nhà nước. Thực tế đây là một hình thức để chiếm đoạt tài sản của người Do Thái. Tôi cũng đi với cha đến văn phòng của Bộ tài chánh. Khi ra khỏi phòng, cha bật khóc. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cha khóc. Ngay lúc đó cảm giác an toàn của tôi lần đầu và mãi mãi đổ vỡ. Từ đó trở đi tôi biết rằng thế giới không phải là chổ lúc nào cũng an toàn, vững chắc. Tôi đã ráng hết sức mình an ủi cha tôi, tôi còn nhớ rõ ràng như thế. Tôi cảm thấy quá bất lực, và cha tôi cũng thế.
Cuối cùng chúng tôi cũng phải trả nhà, và dọn vào ở với cô Wally. Cô là em của cha, và lập gia đình với một người Công giáo. Ngay khi đạo luật về người Do Thái ra đời, chồng cô đã bỏ ra đi. Chúng tôi sống ở đó cho đến một ngày, người bảo vệ đứng từ dưới thang lầu hét lên cho chúng tôi biết. Có một toán người đi ủng đang tiến về phía cầu thang, có lẻ họ là những tên chuyên săn lùng người Do Thái. Vì chúng tôi là người Do Thái duy nhất trong toà nhà đó, chúng tôi có thể dể dàng đoán ra họ đang đi tìm kiếm ai. Cha tôi chạy ra thang lầu phía sau, và nhảy qua hai mái nhà đến chổ dì Lieschen. Dì là em của mẹ. Cha đã ẩn náu ở đó.
Một ngày sau Kristallnacht, khi khắp nơi trên đất nước, các nhà thờ của người Do Thái bị phóng hỏa, các cửa hàng Do Thái bị cướp phá, tôi tình cờ đi ngang qua một nhà thờ đang bị đốt ở Fasanenstrasse. Tôi không quan tâm về tôn giáo mấy, nhưng tôi biết ngã tư và khu phố đó. Một đám đông người vứt các kinh thánh vào lửa. Một vài người Do Thái bị bắt buộc chứng kiến đã oà khóc. Đó là một kinh nghiệm khủng khiếp, một cú sốc đối với tôi. Khi về đưọc đến nhà, mặt tôi tái nhợt; đôi má không còn hồng hào nữa.
Giờ thì rõ ràng rồi -chúng tôi phải trốn đi thôi. Nhưng dường như đã quá trể. Cha tôi mua đưọc một thông hành đi Uruguay, nhưng đó là thông hành giả. Khi người ta điêu đứng, có bao nhiêu cách để làm tiền người ta. Điều đó đúng lúc bấy giờ, đúng cho cả bây giờ.
Trung Hoa là nước duy nhất tiếp nhận người Do Thái mà không cần đòi hỏi thông hành. Vì thế cha tôi mua hai vé tàu, một cho cha, và một cho mẹ, trên chuyến tàu đi từ Trieste đến Thượng Hải ở trạm Triestino của thành phố Lloyd. Mổi vé tốn mười ngàn mác. Cái giá khủng khiếp đó, gần như ngốn hết tất cả những gì chúng tôi còn lại sau khi chịu thuế của người Do Thái. Cha đã dàn xếp để tôi đi theo một đoàn thiếu nhi di tản qua Anh quốc, nơi một người cậu tôi đang sống. Theo ý của cha mẹ tôi, Anh quốc dầu gì cũng an toàn cho một đứa con gái mười lăm tuổi như tôi hơn là hải cảng Thượng Hải tiếng tăm.
Tôi đưa cha mẹ ra ga để đi Trieste. Khi mẹ tôi vừa lên đến đưọc toa xe, bà đã ngất xỉu. Tôi đứng bên ngoài toa xe; cha tôi vẩy vẩy tay chào bên cửa sổ. Tôi ước mình cũng có thể ngất đi đưọc vì sợ hãi khi phải ở lại Bá Linh một mình.
Cô Wally còn ở lại với tôi. Cô quan tâm lo lắng cho tôi đến cảm động. Một ít bạn bè của tôi còn ở lại. Nhưng cũng còn đó nỗi sợ hãi -tôi sẽ phải làm gì nếu Đức quốc xã đến bắt tôi? Lúc đó tôi chưa biết gì đến các trại tập trung, cũng như những gì xảy ra trong các trại đó. Tôi chỉ biết sợ hãi một cách chung chung. Từ lúc chứng kiến cảnh đốt phá nhà thờ, tôi chỉ có cảm giác là tương lai rất mờ mịt, khủng khiếp. Mổi ngày qua, niềm sợ hãi, âu lo như tăng trưởng thêm.
Kiếm một chuyện gì đó để làm cho khuây khỏa, tôi bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha ở một trường sinh ngữ.
Vào tháng 4, 1939, cuối cùng tôi nhận đưọc tin từ một tổ chức Cộng đồng Do Thái ở Bá Linh rằng đã có chổ cho tôi trong đoàn trẻ em đưọc di tản. Tôi xếp theo ít đồ -mấy cái áo, ít sách thiếu nhi mà tôi thích. Một túi đeo vai, và một valise nhỏ là tất cả hành lý tôi đưọc quyền mang theo. Không đưọc mang theo tiền, vàng bạc, nữ trang -không đưọc mang thứ gì có giá trị. Bằng cách đó chín mươi ngàn đứa trẻ đã đưọc cứu sống, trong khi chín mươi ngàn đứa khác bị giết đi.
Lần nữa tôi lại ra ga, lại có con tàu chờ đợi. Chúng tôi sẽ đưọc chở đến thành phố Hamburg trước. Rồi từ đó lên thuyền đi Dover. Tôi là đứa lớn nhất trong số hai trăm đứa trẻ trèo lên tàu với túi đeo lưng và valise xách tay. Và tôi là đứa duy nhất phải bị cảnh sát khám xét người. Nhưng họ không khám thấy gì.
Mấy đưá trẻ tuổi từ hai đến mười lăm. Phần lớn la khóc khản giọng. Cha mẹ chúng đứng đằng sau hàng rào; họ không đưọc phép lên tàu. Rồi tàu cũng rời ga, chiếc tàu đầy nước mắt. Đám trẻ áp mặt lên các khung cửa sổ, kêu khóc. Tôi không khóc. Tôi đã chia tay với cha mẹ rồi. Giờ chỉ còn cô Wally ở lại sau đám dây kẽm gai đó, nhưng nỗi hãi hùng như đã qua đi..
Tôi không bao giờ gặp lại cô Wally nữa, cũng không còn gặp bà con, bạn bè những người đã ở lại Bá Linh nữa. Sau chiến tranh, tôi đã tìm họ qua Chữ Thập Đỏ, nhưng hoài công. Gần đây, một quyển sách tưởng niệm các nạn nhân Do Thái của Đảng Quốc Gia Xã Hội đưọc Trung Tâm Nghiên Cưú Khoa Học Xã Hội của Đại Học Tự Do Bá Linh in -một quyển sách dày đến 1, 450 trang. Tên của các nạn nhân, với địa chỉ, ngày tháng năm sinh, ngày bị đi đày, nơi đày, ngày bị giết, nếu có. Phần đông là đề 'Không rõ".
Tôi tìm thấy tên cô Wally trong quyển sách nầy. Wally Seidl, họ Kussel, sinh ngày 27 tháng 9, 1883, tại Bá Linh, địa chỉ: 69 Stromstrasse; đi đày ngày 5 tháng 3, 1943 ở Auschwitz; nơi mất Auschwitz. Ngày chết: Không rõ.
Và cả dì Lieschen mà cha tôi đã từng trốn ở nhà dì. Sinh ngày 27 tháng 10, 1861, tại Gentin, thị trấn Saxony; đày đi Theresienstadt. Nơi mất: Minsk. Ngày mất: Không rõ.
Ngoài họ, tôi cũng đã tìm thấy tên của bao bà con, bạn bè. Tôi không còn hình ảnh gì của họ, không biết mồ mã. Chỉ có quyển sách đó và bao kỷ niệm trong ký ức của tôi.
---o0o---


Каталог: downloads -> khuyen-tu -> chuyen-doi-tu-ke
downloads -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
downloads -> CHÍnh phủ  CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
downloads -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
downloads -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
downloads -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố CẦn thơ Độc lập Tự do Hạnh phúc
downloads -> BỘ y tế Số: 19/2011/tt – byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
downloads -> THỦ TƯỚng chính phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
downloads -> THÔng tư Ban hành Quy chế công nhận trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương