PHƯƠng pháp hoạch đỊnh thuế theo tình huốNG



tải về 95.6 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích95.6 Kb.
#13654
PHƯƠNG PHÁP HOẠCH ĐỊNH THUẾ THEO TÌNH HUỐNG

Tác giả: Lê Quang Cường – Trưởng bộ môn Thuế - Khoa Tài chính công - Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Địa chỉ: 279 Nguyễn Tri Phương, quận 10, TP.HCM

Điện thoại: 0908348883

E-mail: quangcuong@ueh.edu.vn


Các thể nhân và pháp nhân nộp thuế luôn có nhu cầu thực hiện việc hoạch định thuế nhằm đạt được những lợi ích tối ưu cho người nộp thuế. Tuy nhiên, tính linh hoạt của các tình huống do bản chất vốn có và do sự biến động của môi trường kinh doanh cũng như sự thay đổi của các luật thuế khiến cho người nộp thuế luôn phải đối diện với nhiều rủi ro khi tiến hành hoạch định thuế. Mục tiêu của bài viết này tập trung vào việc vận dụng quy trình nghiên cứu thuế vào việc hoạch định thuế theo tình huống nhằm hạn chế những rủi ro phát sinh cho người nộp thuế. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính theo tình huống thực tế phát sinh. Nghiên cứu này bắc nhịp cầu nối giữa nghiên cứu thuế và hoạch định thuế theo tình huống.

Từ khóa (Key words)

Nghiên cứu thuế, hoạch định thuế, nhà nghiên cứu.




1. Giới thiệu

Biến số có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc HĐT cho các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ về thuế chính là biến số đặc điểm của doanh nghiệp. Biến số đặc điểm của doanh nghiệp là một biến số phụ thuộc rất nhiều vào bản thân của doanh nghiệp và sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, biến số đặc điểm là biến số gây ra rất nhiều khó khăn cho các nhà HĐT khi tiếp cận với biến số này. Hơn nữa, hệ thống văn bản pháp luật nói riêng và pháp luật thuế nói chung vô cùng phức tạp và thường xuyên thay đổi cũng gây ra nhiều rủi ro cho nhà HĐT khi đưa ra một quyết định và truyền đạt gợi ý cho các thể nhân và pháp nhân. Điều này khiến cho các nhà HĐT phải tiến hành việc HĐT theo tình huống của các thể nhân và pháp nhân. Tuy nhiên, tính linh hoạt của các tình huống do bản chất vốn có và do sự biến động của môi trường kinh doanh cũng như sự thay đổi của các luật thuế khiến cho người nộp thuế luôn phải đối diện với nhiều rủi ro khi tiến hành HĐT. Để hạn chế những rủi ro này, HĐT cần có sự kết hợp hài hòa với phương pháp NCT nhằm xây dựng một quy trình HĐT theo tình huống dựa trên cơ sở nền tảng của phương pháp NCT. Sự kết hợp này đòi hỏi sự chia sẽ giữa mô hình nghiên cứu lý thuyết tài chính và nghiên cứu luật thuế căn cứ theo các tình huống mở chứ không đi theo định hướng tuân thủ luật thuế. Việc vận dụng từng bước quy trình NCT chặt chẽ vào việc HĐT theo tình huống sẽ giúp cho nhà HĐT và các thể nhân và pháp nhân đánh giá chính xác các nhân tố liên quan trong việc HĐT hiệu quả. Bài viết sẽ tập trung vào nội dung làm nổi bậc sự kết hợp quy trình NCT vào việc HĐT theo tình huống cụ thể dựa trên cơ sở phân tích tài liệu, phỏng vấn chuyên sâu và quan sát tại thực thể kinh doanh.



2. Cơ sở lý thuyết

NCT được định nghĩa là một quy trình giải quyết các vướng mắc liên quan đến thuế bằng cách áp dụng luật thuế cho từng phần riêng biệt của các sự kiện. Nói cách khác, NCT được định nghĩa là một quy trình của việc xác định các kết quả về thuế có khả năng xẩy ra nhất của một tiến trình hành động được đảm nhận bởi một cá nhân hoặc một tổ chức. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra quy trình chuẩn mực về NCT như sau:


Bước 1


Xác minh sự kiện



Bước 2

Nhận dạng các vấn đề

Bước 3


Xác định thẩm quyền phù hợp


Bước 4

Đánh giá các thẩm quyền

Bước 5


Phân tích các sự kiện theo từng thẩm quyền phù hợp



Bước 6

Truyền đạt các kết luận và gợi ý cho khách hàng

HĐT là quá trình tìm kiếm các gợi ý về thuế khác nhau để xác định khi nào, như thế nào và liệu có nên thực hiện một số giao dịch để đạt được thuế tối ưu nhất. Hay nói cách khác, hoạch định thuế là việc chúng ta sắp xếp những chuyện liên quan đến thuế của chúng ta để mang lại cho chúng ta những lợi thế nhất về thuế. Quá trình HĐT được thực hiện căn cứ vào các biến số sau đây:

- Biến số thực thể kinh doanh: loại hình thực thể kinh doanh nào được lựa chọn để tiến hành hoạt động kinh doanh?

- Biến số thời kỳ: năm tài khóa nào hoặc những năm tài khóa nào mà giao dịch diễn ra?

- Biến số quyền đánh thuế: giao dịch diễn ra trong phạm vi chi phối của quyền đánh thuế nào?

- Biến số đặc điểm: đặc điểm thuế là gì đối với thu nhập từ giao dịch?
BIẾN SỐ THỰC THỂ KINH DOANH

Các doanh nhân luôn có nhiều cơ hội để lựa chọn loại hình thực thể kinh doanh phù hợp để khởi đầu công việc kinh doanh, hợp tác kinh doanh hoặc mở rộng phạm kinh doanh thậm chí vượt khỏi phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tùy theo quy định pháp luật của mỗi quốc gia, doanh nhân sẽ có những xu hướng lựa chọn khác nhau. Ví dụ tại Hoa Kỳ, các loại hình thực thể kinh doanh như: hình thức sở hữu duy nhất một chủ, công ty hợp danh, công ty TNHH, hoặc công ty cổ phần S sẽ không thuộc diện chịu thuế thu nhập công ty, thay vào đó những người chủ công ty sẽ chỉ nộp thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp ngoại lệ, chỉ có loại hình công ty cổ phần thông thường (công ty cổ phần C) sẽ phải chịu thuế thu nhập công ty và đồng thời phần lợi tức hay cổ phần chia cho các cổ đông phải chịu thuế thu nhập cá nhân.


BIẾN SỐ THỜI KỲ

Thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân có kỳ tính thuế theo cơ sở hàng năm. Do đó, các khoản chi phí thuế và tiết kiệm thuế từ một giao dịch lệ thuộc vào năm giao dịch được thực hiện. Các khoản chi phí và tiết kiệm này là một hàm số của mức thuế suất biên của thực thể kinh doanh. Nếu mức thuế suất này có sự thay đổi từ năm tính thuế đến năm kế tiếp, những khoản chi phí và tiết kiệm thuế cũng sẽ bị tác động tương ứng. Tại mỗi quốc gia, mức thuế suất thường xuyên thay đổi, nhất là tại các nước phát triển, mức thuế suất được thay đổi hàng năm. Lợi ích thuế đang có được ở năm nay có lẽ sẽ không còn nữa ở năm kế tiếp. Do vậy, một sự hạn chế theo quy định của pháp luật tạo ra một vấn đề thuế năm nay sẽ được chuyển sang các năm sau. Nhà quản lý phải am hiểu những thay đổi mỗi năm trong các luật thuế liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Bằng cách điều chỉnh thời gian của các giao dịch, họ có thể giảm chi phí thuế hoặc gia tăng tiết kiệm thuế cho công ty của họ.

Ngay cả trường hợp mức thuế suất cố định không thay đổi theo thời gian, chi phí thuế và tiết kiệm thuế từ các giao dịch sẽ vẫn có khả năng thay đổi theo thời gian. Sự thay đổi này là do thời giá của tiền. Theo thuật ngữ hiện giá, một đồng tiền trả trong năm nay có giá trị nhiều hơn một đồng tiền được trả trong một năm trong tương lai. Ngược lại, một đồng tiền thuế đã tiết kiệm năm nay sẽ có giá trị hơn một đồng tiền thuế tiết kiệm trong năm tương lai.
BIẾN SỐ QUYỀN ĐÁNH THUẾ

Tại các quốc gia mà quyền đánh thuế được phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương thì các doanh nghiệp nội địa đều là đối tượng chịu sự chi phối của quyền đánh thuế thuế liên bang, tiểu bang và địa phương. Vì vậy, sự khác biệt về cấu trúc trong những hệ thống thuế tiểu bang, trách nhiệm pháp lý thuế thu nhập tổng hợp lại của một công ty (liên bang, tiểu bang, và địa phương) là một hàm số rất lớn của các quyền đánh thuế chi phối doanh nghiệp.


BIẾN SỐ ĐẶC ĐIỂM

Biến số đặc điểm chính là biến số hóc búa nhất trong số các biến số tương tác ảnh hưởng đến thuế. Đặc điểm thuế của bất cứ khoản thu nhập được xác định nghiêm ngặt bởi luật; nó không thuộc về trực giác và không chịu mối liên hệ với bất cứ thuộc tính tài chính hay thuộc tính kinh tế nào đó của thu nhập. Ngoài ra, đặc điểm của thu nhập và các sự phân nhánh của đặc điểm này có thể thay đổi với từng Dự luật Thuế mới Quốc hội đã thông qua hoặc các văn bản hướng dẫn mới mà cơ quan có thẩm quyền ban hành. Đặc điểm thuế luôn thay đổi từ giao dịch này sang giao dịch khác theo luật định. Thậm chí trên cùng một lãnh thổ quốc gia thì đặc điểm thuế của tiểu bang, địa phương có thể khác biệt so với đặc điểm thuế của một tiểu bang, địa phương khác đối với cùng một giao dịch giống hệt nhau. Sự khác biệt về đặc điểm giữa hai quốc gia khác nhau là điều chắc chắn.

Mỗi khoản thu nhập thể hiện một đặc điểm cơ bản phù hợp với các quy định của thuế như thu nhập thông thường hoặc lãi vốn. Thu nhập đã phát sinh từ công việc mua bán thường niên các loại hàng hóa hoặc dịch vụ với các khách hàng bình thường hoặc khách hàng thân thiết gọi là thu nhập thông thường. Thu nhập từ đầu tư vốn, như là tiền lãi, cổ tức, tiền cho thuê, cũng có đặc điểm thông thường. Như một hàm ý được dán nhãn hiệu, thu nhập thông thường nhất bị đánh thuế đối với mức thuế suất cá nhân thông thường hoặc mức thuế suất công ty. Mua bán hoặc trao đổi một loại tài sản cụ thể, liên quan đến như là các tài sản tài chính, làm gia tăng lãi vốn. Về mặt lịch sử, lãi vốn đã được hưởng cách đối xử có lợi theo luật thuế thường xuyên dưới hình thức của một mức thuế suất ưu đãi.
Việc hoạch định thuế phù hợp với luật pháp khi thực hiện việc này trong phạm vi ngôn từ và ý nghĩa của luật pháp (Sally M. Jones, 1989). Giáo sư danh dự tiến sĩ Sally M. Jones đã đưa ra vấn đề HĐT vào năm 1989. Tuy nhiên, việc HĐT lúc này chỉ được thực hiện độc lập chưa có sự kết hợp với quy trình NCT. Trong năm 2011, bà cùng với phó giáo sư Shelley Rhoades – Catanach đã đưa quy trình NCT gồm có 6 bước: Thu thập sự kiện, Nhận định các vấn đề , Xác định thẩm quyền, Phân tích thẩm quyền, Lập lại từ bước 1 đến bước 5, Truyền đạt các kết luận. Quy trình NCT thuế này cũng có nhiều điểm tương đồng với quy trình NCT của các tác giả trước đây. Tuy nhiên, 02 tác giả này đã đưa ra được phương pháp vận dụng quy trình NCT vào việc HĐT. Việc vận dụng quy trình NCT trong HĐT là một phương pháp mới trong việc HĐT. Chính vì vậy bài viết đã lựa chọn khung lý thuyết về NCT của tác giả Sally M. Jones và Shelley Rhoades – Catanach theo phương pháp nghiên cứu khoa học định tính làm khung lý thuyết cho bài viết này.


Bước 1

Thu thập sự kiện




Bước 2

Nhận định các vấn đề


Bước 5

Lập lại từ bước 1 đến hết bước 4

Bước 3

Xác định thẩm quyền liên quan




Bước 4


Phân tích các thẩm quyền


Bước 6

Truyền đạt các kết luận




Sơ đồ số: Quy trình HĐT

(Nguồn: Sally M. Jones, Sally M. Jones, 2011)
Bài viết này dựa trên mô hình nghiên cứu định tính và các phương pháp tiếp cận HĐT theo tình huống sẽ được sử dụng. Dữ liệu thu thập từ các tài liệu chính thức và các cuộc phỏng vấn chuyên sâu trực tiếp thực thể kinh doanh liên quan đến việc HĐT.
3. Thực hiện quy trình HĐT theo tình huống

Bước 1 – Thu thập sự kiện

Tình huống phát sinh thực tế tại Mỹ: “Sara Colter là một thợ chụp ảnh chuyên nghiệp đã thuê công ty tư vấn để xác định thuế của một giao dịch: Thu nhập phát sinh của bà Sara khi bán cho công ty CCM 12 mẫu đất”. Bà Sara cung cấp các sự kiện dưới đây trong bảng tóm tắt ban đầu của giao dịch.



  • Bà Sara đã mua đất từ ông bà Biaca trong năm 1994 với giá tiền $400.000.

  • Bà Sara và công ty CCM đã tiến tới một hợp đồng mà theo đó CCM sẽ trả $325.000 đối với lô đất và sẽ trả tất cả các chi phí giao dịch phát sinh.

Là một chuyên gia thuế, bạn biết thuế của một giao dịch sẽ lệ thuộc vào việc liệu các bên liên quan trong giao dịch này có phải là “các bên liên kết” theo các quy định của thuế liên bang hay không. Bạn cũng biết rằng thuế của việc bán tài sản phụ thuộc vào việc phân loại tài sản này là tài sản vốn hay không phải là tài sản vốn. Do bà Sara không có kinh nghiệm trong các vấn đề về thuế nên bạn không thể trực tiếp hỏi bà liệu bà và công ty CCM có phải là các bên liên kết hay không. Hoặc bạn không thể hỏi bà Sara liệu đất có phải là tài sản vốn hay không. Do việc thiếu kiến thức về thuế của bà Sara nên các câu hỏi như vậy sẽ trở nên vô nghĩa đối với khách hàng của bạn. Do đó, bạn quyết định hỏi Sara các câu hỏi sau đây.

  • Bà có bất cứ mối quan hệ cá nhân nào với ông bà Biaca không? Bà có biết gì nhiều hơn về họ hay chỉ biết đơn thuần họ là những người bán đất cho bà trong năm 1994?

  • Lý do mua đất của bà là gì? Bà có thực hiện bất cứ việc cải tạo nào cho đất từ năm 1994 hay không? Bà có mua hoặc bán bất cứ bất động sản nào khác trong suốt 10 năm qua không?

  • Bà và CCM đã tiến tới một hợp đồng mua bán đất có giá trị chỉ $325.000 như thế nào? Tại sao đất đã giảm giá trị từ khi bà mua nó?

  • Bà có sở hữu bất cứ cổ phiếu nào của công ty CCM hay không? Các cổ đông của công ty CCM là ai?


Hồi đáp các câu hỏi của bạn, bà Sara cung cung cấp thêm các sự kiện sau đây.


  • Bà không có mối quan hệ cá nhân nào với ông bà Biaca và không biết họ trước khi bà mua đất. Việc mua đất đã được sắp xếp thông qua một môi giới bất động sản chuyên nghiệp.

  • Bà đã mua đất vì bà biết rằng giá trị của đất sẽ tăng lên theo thời gian và cuối cùng bà sẽ bán nó với một mức lợi nhuận. Bà đã không thực hiện bất cứ việc cải tạo nào đối với mãnh đất, đất ngày hôm nay vẫn trong điều kiện hoàn toàn giống hệt khi bà mua đất. Bà đã không mua hoặc bán bất cứ bất động sản nào khác trừ căn nhà riêng của bà trước đây.

  • Hai năm qua, bà Sara đã nhận hai đánh giá độc lập về giá trị của đất. Cả hai đánh giá đều kết luận giá trị thị trường hiện hành của đất là $325.000. Công ty CCM đã thực hiện đánh giá của họ và xác nhận giá trị này. $75.000 giá trị giảm xuống là do các giới hạn phân vùng địa phương đối với đất được đặt ra để thay thế trong năm 1997.

  • Bà Sara không sở hữu bất cứ cổ phiếu nào của công ty CCM, CCM có hai mươi bốn cổ đông cá nhân sở hữu 1.000 cổ phiếu đang lưu hành của CCM. Hai người trong số 24 cổ đông này là ông Jack là anh trai bà và Robert con trai bà. Bà Sara đã không quen biết với bất cứ cổ đông nào khác của CCM.

Bước 2 – Nhận định các vấn đề

Sau khi nghiên cứu các sự kiện, bạn kết luận rằng giao dịch được bà Sara đề nghị liên quan đến một vấn đề về thuế cơ bản: việc bán đất của bà Sara cho công ty CCM sẽ mang lại khoản lỗ có thể được giảm trừ trên tờ khai thuế thu nhập của bà hay không? Vấn đề này gợi ý bốn câu hỏi nghiên cứu bạn quyết định gửi đi theo trình tự sau đây.

Bà Sa ra được thực hiện khoản lỗ khi bán đất của bà cho công ty CCM hay không?

Bà Sara được ghi nhận khoản lỗ được thực hiện này hay không?

Đặc điểm của khoản lỗ được ghi nhận là gì?

Đặc điểm của khoản lỗ nhận được có nằm trong chừng mực bà Sara có thể giảm trừ

khoản lỗ này trong việc tính thu nhập tính thuế trong năm bán đất hay không?

Bước 3 – Xác định thẩm quyền

Hãy bắt đầu việc tìm kiếm thẩm quyền của bạn, bạn xác định “Chương I, các việc bán và các việc trao đổi, các khoản lãi và lỗ vốn, hồi tố nhằm thu hồi vốn, hồi tố khấu hao”. Bạn tra cứu Mục 1001 của Luật thuế Liên bang. Khi bạn kiểm Tra mục này, bạn đã xác nhận rằng các phụ đề (a) và (b) có vẻ liên quan.

Mục 1001. Xác định tổng giá trị và việc ghi nhận lãi hoặc lỗ.

(a) Tính khoản lãi hoặc lỗ

Lãi từ việc bán hoặc việc thanh lý tài sản khác sẽ vượt quá giá trị được thực hiện từ đó so với căn cứ được điều chỉnh được quy định trong Mục 1011 dành cho việc xác định phần lãi và lỗ sẽ vượt căn cứ được điều chỉnh thể hiện trong Mục này dành cho việc xác định lỗ so với giá trị được thực hiện.

(c) Việc ghi nhận lãi hoặc lỗ

Trừ trường hợp đã cung cấp trong phụ đề này, tổng giá trị của khoản lãi hoặc lỗ, được xác định theo Mục này khi bán hoặc trao đổi tài sản sẽ được ghi nhận.

Mục 1001 (c) nhắc nhở bạn lãi hoặc lỗ được thực hiện khi bán hoặc trao đổi không luôn luôn được ghi nhận. Việc kiểm tra sâu hơn nữa về các Chương phụ của Chương I thể hiện I-3500, “các khoản lỗ từ việc bán và trao đổi giữa các bên liên kết”. Chương phụ này hướng bạn đến Mục 267 cho biết một người nộp thuế không thể ghi nhận một khoản lỗ được thực hiện khi bán tài sản cho một bên liên kết.



Bước 4 – Phân tích thẩm quyền

Căn cứ vào việc bạn đọc Mục 1001(a), bạn xác định bà Sara sẽ được thực hiện khoản lỗ $75.000 nếu bà bán đất cho công ty CCM với giá tiền $325.000. Theo luật chung của Mục 1001(c), các khoản lỗ được thực hiện được ghi nhận “ngoại trừ tình trạng khác đã cung cấp trong phụ đề này” Do vậy, Sara có thể được ghi nhận khoản lỗ và khai báo trên tờ khai thuế trong năm bán đất trừ khi Mục 267 không cho phép giảm trừ khoản lỗ. Các phần của Mục 267 xem như có vẻ thích hợp với vụ kiện của Sara với nội dung như sau:

M. 267. các khoản lỗ, các chi phí và tiền lãi đối với các giao dịch giữa những người nộp thuế phụ thuộc.

(a) Nói chung

(1) Giảm trừ đối với các khoản lỗ không được cho phép

Không có khoản giảm trừ được cho phép với bất cứ khoản lỗ nào từ việc bán hoặc đổi tài sản, trực tiếp hoặc gián tiếp giữa những người theo danh nghĩa trong bất cứ các đoạn nào của phụ đề (b).

(b) Các mối quan hệ

Những người liên quan đến phụ đề (a) là:

(2) Một cá nhân và một công ty cổ phần đã sở hữu hơn 50% giá trị của cổ phiếu đang lưu hành trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua gia đình của cá nhân;

(c) Quyền sở hữu cổ phiếu ngầm

Theo quy định của việc xác định, trong việc áp dụng phụ đề (b), quyền sở hữu của cổ phiếu -

(3) Một cá nhân nên được xét đến khi nắm giữ quyền sở hữu cổ phiếu, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua gia đình của cá nhân.

(4) Gia đình của một cá nhân chỉ gồm có anh em hoặc chị (dù mang toàn bộ hoặc một nửa dòng máu), vợ hoặc chồng, ông bà, con cháu trực hệ; và

(5) .... cổ phiếu sở hữu ngầm của một cá nhân khi áp dụng theo đoạn (2) hoặc (3) sẽ không được xem là được sở hữu ngầm bởi cá nhân này theo quy định của việc áp dụng lại hoặc của các đoạn này để thực hiện quyền sở hữu ngầm khác của cổ phiếu này.

Theo Mục 276(a)(1), Sara không thể ghi nhận khoản lỗ được thực hiện của bà nếu bà và công ty CCM là các bên liên kết. Theo Mục 267(b)(2), bà Sara và công ty CCM là các bên liên kết nếu bà Sara sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp hơn 50% giá trị của cổ phiếu đang lưu hành của CCM. Bạn biết rằng bà Sara không sở hữu bất cứ cổ phiếu trực tiếp CCM nào nhưng bạn không chắc chắn về việc liệu bà có sở hữu bất cứ cổ phiếu gián tiếp nào hay không. Mục 267(c)(2) cho thấy bà Sara bị xem xét có thể sở hữu bất cứ cổ phiếu CCM nào thông qua “gia đình” của bà. Khi bạn chiếu theo các sự kiện bạn đã thiết lập trong cuộc họp đầu tiên của bạn với bà Sara, bạn phát hiện rằng bạn không biết nhiều về cổ phiếu của CCM được sở hữu bởi anh trai Jack và cháu trai Robert của bà Sara như thế nào.

Bước 5 – Lập lại từ bước 1 đến bước 4

Bạn liên lạc với bà Sara để hỏi thêm câu hỏi: có bao nhiêu cổ phiếu CCM mà Jack và Robert mỗi người đang sở hữu? Bà Sara đã hồi đáp Jack sở hữu 350 cổ phiếu và Robert sở hữu 200 cổ phiếu trong số 1.000 cổ phiếu đang lưu hành của CCM. Với dữ liệu phụ này, bạn có thể hoàn tất việc phân tích của bạn về Mục 267 khi nó áp dụng cho việc bán đất được đề nghị của bà Sara.

Theo Mục 267(c)(2), gia đình của bà Sara được tính gồm có anh trai bà là ông Jack nhưng không bao gồm người cháu trai của bà là cậu Robert. Do vậy, bà Sara gián tiếp sở hữu 350 cổ phiếu của CCM do ông Jack trực tiếp sở hữu. Tuy nhiên, Jack cũng gián tiếp sở hữu 200 cổ phiếu do con trai ông cậu Robert sở hữu. Mục 627(c)(5) khẳng định rằng quyền sở hữu gián tiếp của ông Jack đối với các cổ phần này không được tính đến theo quy định của việc xác định quyền sở hữu của bà Sara. Dựa trên cơ sở của các luật ban hành này, bạn kết luận bà Sara chỉ trực tiếp và gián tiếp sở hữu 350 (35%) trong số 1.000 cổ phiếu của CCM. Vì vậy, bà Sara và công ty CCM là các bên không liên kết, Mục 627(a) sẽ không áp dụng đối với việc bà Sara bán đất cho công ty cổ phần CCM và bà Sara sẽ được ghi nhận khoản lỗ $75.000 được thực hiện này.

Bạn tiếp tục phân tích các nguồn thông tin và các nguồn của thẩm quyền liên quan đến hai câu hỏi nghiên cứu cuối cùng của bạn. Việc ghi nhận khoản lỗ của bà Sara là khoản lỗ vốn nếu đất là tài sản vốn theo Mục 1221. Đất không phải là tài sản vốn, nếu nó là tài sản được nắm giữ để bán cho các khách hàng theo quy định của Mục 1221(a)(1). Việc xác định này đã có chủ đề của nhiều quyết định phán quyết. Một vụ kiện mới đây, James E. Zurcher Jr.v. Commissioner, T.C Memo 1997-203, tuyên bố:

Liệu tài sản có phải là một tài sản vốn hoặc thay vào đó, nó được nắm giữ chủ yếu để bán theo quá trình kinh doanh bình thường của bên nguyên đơn là việc xác định căn cứ theo sự thật ..... Các tòa án đã phát triển các nhân tố không loại trừ dưới đây để trợ giúp cho việc xác định này: (1) đặc điểm của công ty của người nộp thuế; (2) mục đích của người nộp thuế khi mua và khi nắm giữ tài sản: (3) việc phân khu phụ, vẽ bản đồ và các cải tạo khác có xu hướng làm cho tài sản khả thị hơn; (4) tính thường xuyên, số lượng và tính liên tục của việc bán; (5) trong chừng mực người nộp thuế đã tham gia vào hoạt động bán; (6) khoảng thời gian tài sản đã được nắm giữ; (7) tính chắc chắn của thu nhập được nhận từ việc bán và và tỷ lệ phần trăm thu nhập của thu nhập của người nộp thuế là gì?; (8) chừng mực của việc quảng cáo và các hoạt động xúc tiến khác; và (9) liệu tài sản có được ghi vào danh sách trực tiếp hay thông qua những người môi giới.

Bà Sara tuyên bố mục đích mua đất để nắm giữ đất là một khoản đầu tư dài hạn. Bà đã không thực hiện việc cải tạo đối với đất, đã không tham gia vào việc bán bất động sản nào khác (ngoại trừ căn nhà riêng của bà), bà đã không nhận được phần thu nhập đáng kể của bà từ việc bán bất động sản đó và không quảng cáo, không có xúc tiến các hoạt động bán bất động sản. Dựa trên cơ sở của các dữ liệu thực tế này, bạn kết luận bà Sara đã không nắm giữ đất để bán theo tiến trình kinh doanh bình thường vậy đất là tài sản vốn và khoản lỗ của bà là khoản lỗ vốn dài hạn. Bà có thể giảm trừ khoản lỗ này trong năm bán đất trong giới hạn của bất cứ khoản thu nhập vốn tương ứng nào được ghi nhận trong năm nay. Nếu khoản lỗ vốn vượt các khoản thu nhập vốn của bà thì Sara được phép giảm trừ $3.000 của phần vượt mức khi tính thu nhập gộp được điều chỉnh. Khoản lỗ không được giảm trừ sẽ trở thành một khoản lỗ vốn dài hạn chuyển lên phía trước vào các năm tính thuế tiếp theo.



Bước 6 – Truyền đạt các kết luận

Bạn viết bảng ghi nhớ nghiên cứu dưới đây đối với sổ sách vĩnh viễn của bạn

05/03/2010

Bảng ghi nhớ hồ sơ thuế

Từ: Bridget McGuffin

Chủ đề: Sara Colter

Các kết luận nghiên cứu cam kết

Tổng kết của các sự kiện

Bà Sara Colter đang xem xét việc bán 12 mẫu đất chưa sử dụng cho công ty cổ phần CCM với mức giá được đề nghị $325.000. Đất đã được mua trong năm 1994 với giá $400.000 là khoản đầu tư dài hạn mua từ ông bà Bianca là bên không liên kết. Bà Colter đã không thực hiện việc cải tạo đất từ thời điểm mua đất và cũng không mua hoặc bán bất cứ bất động sản nào khác trừ căn nhà của bà. Công ty CCM là công ty cổ phần không niêm yết có 1.000 cổ phiếu đang lưu hành. Bà Colter không phải là cổ đông của CCM; tuy nhiên, anh trai của bà ông Jack và con trai của ông Jack là cậu Robert Colter lần lượt mỗi người sở hữu 350 và 200 cổ phiếu của CCM. Bà Colter không có liên quan với bất cứ các cổ đông nào khác của công ty cổ phần CCM.



Luật và việc phân tích

Theo Mục 1001 của Luật thuế Liên bang năm 1986, bà Colter sẽ được thực hiện khoản lỗ $75.000 trên doanh số bán được đề nghị của lô đất bằng với phần vượt căn cứ được điều chỉnh của bà Sara đối với đất ($400.000 giá mua) so với tổng giá trị được thực hiện khi bán ($325.000 giá bán được đề nghị). Tuy nhiên, Mục 627(a)(1) cho thấy không có khoản giảm trừ nào được cho phép đối với một khoản lỗ từ việc bán hoặc trao đổi tài sản giữa các bên liên kết, như được định nghĩa trong Phụ đề (b) của Mục 627. Theo các quy định này, các bên liên kết gồm có cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu nhiều hơn 50% giá trị của cổ phiếu đang lưu hành của một công ty cổ phần. Mặc dù bà Sara không trực tiếp sở hữu bất cứ cổ phiếu nào trong công ty cổ phần CCM nhưng chúng ta phải xem xét liệu quyền sở hữu cổ phiếu CCM của anh trai bà và cháu trai bà có cấu thành quyền sở hữu gián tiếp của bà Sara với hơn 50% giá trị của cổ phiếu của CCM hay không.

Mục 267(c)(2) cho thấy trong việc xác định quyền sở hữu gián tiếp theo các quy định của Mục 267(b), cá nhân được coi là sở hữu cổ phiếu khi đã sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp bởi gia đình của họ. Vì vậy, bà Sara Colter được xem là sở hữu gián tiếp cổ phiếu của CMM của anh trai bà là ông Jack Colter nhưng không bao gồm phần cổ phiếu của cháu trai bà là cậu Robert Collter. Lưu ý rằng Jack Colter được xem là sở hữu gián tiếp cổ phiếu CMM của con trai ông là cậu Robert Colter. Tuy nhiên, theo Mục 267(c)(5), quyền sở hữu gián tiếp của ông Jack đối với các cổ phần này không tính đến việc xác định quyền sở hữu của bà Sara. Do vậy, Sara Colter chỉ sở hữu gián tiếp 350 cổ phiếu của công ty cổ phần CCM, bằng với 35% của 1.000 cổ phiếu đang lưu hành. Do quyền sở hữu của bà Colter với CCM là thấp hơn 50% nên luật không cho phép được áp dụng khoản lỗ của các bên liên kết của Mục 267(a).

Khoản lỗ được ghi nhận của bà Colter được xem là một khoản lỗ vốn nếu đất được coi như tài sản vốn theo Mục 1221. Đất không phải là tài sản vốn nếu đất được nắm giữ để bán cho các khách hàng một cách thông thường (Mục 1221(a)(1)). Việc xác định này đã là chủ đề của hàng loạt các quyết định phán xét. Một vụ kiện mới đây, James E. Zurcher Jr v. Commisioner, T.C. Memo 1997-2003, đã tuyên bố trong phần:

Liệu Tài sản là một tài sản vốn hay thay vào đó, là tài sản được nắm giữ để bán theo tiến trình kinh doanh thông thường của bên nguyên đơn là một việc xác định theo sự thật..... các tòa án đã phát triển các nhân tố không thể loại trừ nhằm trợ giúp trong việc xác định này: (1) đặc điểm của công ty của người nộp thuế; (2) mục tiêu của người nộp thuế khi mua và nắm giữ tài sản; (3) phân vùng phụ, lập bản vẽ và các cải tạo khác có xu hướng làm cho tài sản khả thị hơn; (4) tính thường xuyên, số lượng và tính liên tục của việc bán; (5) trong một chừng mực người nộp thuế tham gia vào hoạt động bán, tỷ lệ phần trăm thu nhập trong thu nhập của người nộp thuế là gì; (8) chừng mực của các hoạt động quảng cáo và hoạt động xúc tiến khác; và (9) liệu tài sản đã được ghi vào danh sách trực tiếp hoặc thông qua các nhà môi giới.

Bà Colter đã tuyên bố mục tiêu mua đất của bà là để nắm giữ đất là một khoản đầu tư dài hạn. Bà đã không thực hiện những việc cải tạo tài sản, đã không tham gia vào việc bán bất động sản nào khác (ngoại trừ căn nhà riêng của bà), không nhận được phần thu nhập đáng kể từ những việc bán bất động sản như vậy và không thực hiện các hoạt động quảng cáo hoặc xúc tiến bất động sản. Các sự kiện hỗ trợ cho kết luận rằng bà Colter đã không nắm giữ đất để bán theo tiến trình kinh doanh thông thường và như vậy đất là tài sản vốn.



Các kết luận

Bà Colter sẽ ghi nhận một khoản lỗ vốn $75.000. Do bà đã nắm giữ đất lâu hơn 1 năm nên khoản lỗ sẽ là một khoản lỗ vốn dài hạn. Nếu khoản lỗ vượt khoản thu nhập vốn tương ứng thì theo Mục 1211(b) bà sẽ được giảm trừ $3.000 cho phần lỗ vượt mức này khi tính thu nhập gộp được điều chỉnh. Phần lỗ còn lại không được giảm trừ nào sẽ được chuyển lên phía trước vào các năm tính thuế tiếp theo.

Bạn cũng sẽ viết bức thư sau đây cho Sara Colter

05/03/2010

Bà. Sara Colter

1812 Riverbend Place

Kirwood, Missouri 62119
Kính gửi bà Colter.

Bức thư này là việc hồi đáp theo yêu cầu của bà liên quan đến thuế của việc được đề nghị bán 12 mẫu đất chưa sử dụng cho công ty cổ phần CCM. Trước khi tuyên bố các kết luận của tôi, tôi muốn tổng kết các sự kiện về vụ kiện của bà. Bà đã mua đất trong năm 1994 là khoản đầu tư dài hạn. Giá mua đã là $400.000 và ông bà Bianca những người bán tài sản này là những bên không liên kết với bà. Bà đã không cải tạo đất bằng bất cứ cách nào kể từ thời điểm mua đất và không bao giờ mua hoặc không bao giờ bán bất cứ bất động sản nào khác ngoại trừ căn nhà riêng của bà. Công ty CCM là công ty cổ phần không niêm yết có 1.000 cổ phiếu đang lưu hành. Mặc dù bà không sở hữu bất cứ cổ phiếu nào nhưng anh trai của bà ông Jack Colter và con trai của ông cậu Robert Colter đã lần lượt sở hữu 350 và 200 cổ phiếu. Bà không liên kết với bất cứ cổ đông nào khác của công ty cổ phần CCM. Các kết luận chính xác của tôi hoàn dựa trên cơ sở hiểu biết của tôi về các sự kiện này. Do đó, nếu báo cáo về các sự kiện có bất cứ khía cạnh nào là không chính xác hoặc chưa hoàn chỉnh, xin vui lòng thông báo cho tôi ngay lập tức.

Nếu bà bán đất của bà cho công ty CCM theo giá trên hợp đồng được đề nghị $325.000, bà sẽ được ghi nhận khoản lỗ $75.000. Khoản lỗ này là phần chênh lệch của khoản đầu tư $400.000 của bà đối với đất so với $325.000 cuối cùng bà sẽ nhận. Bà được phép khai báo khoản lỗ trên tờ khai thuế cá nhân của bà trong năm bán đất trừ khi bà và công ty CCM là “các bên liên kết” theo phạm vi ý nghĩa của luật thuế. Theo nghiên cứu của tôi, bà và công ty CCM không đáp ứng định nghĩa theo quy định của pháp luật về “các bên liên kết”, dù anh trai của bà và cháu trai của bà sở hữu 55% cổ phiếu trong công ty CCM. Do vậy, bà có thể khai báo khoản lỗ $75.000 theo các quy định của thuế. Do bà đã nắm giữ đất để đầu tư và đã sở hữu nó lâu hơn 1 năm nên khoản lỗ được phân loại là khoản lỗ vốn dài hạn. Khi khoản lỗ vốn vượt khoản khoản thu nhập vốn của bà, bà chỉ có thể giảm trừ $3.000 của khoản lỗ vượt mức để làm giảm các nguồn thu nhập khác.

Cảm ơn bà vì đã cho công ty tôi cơ hội tư vấn bà trong vấn đề này. Nếu bà có bất cứ câu hỏi nào về các kết luận của tôi, xin đừng do dự gì cứ vui lòng gọi cho tôi. Nếu bà tiến hành kế hoạch của bà để bán đất, tôi lấy làm hân hạnh phục vụ cho bà để triển khai một chiến lược tối đa khoản giảm trừ của bà đối với khoản lỗ vốn $75.000 đã biết trước.

Trân trọng,

Bridget McGuffin


5. Tài liệu trích dẫn

1. Barbar H. Karlin (2004), Tax Research Techniques, Prentice Hall.

2. Machelle Hanlon, Shane Heitzman (2010), “A Review of Tax Research”, Journal of Accounting and Economics, Volume 50, pp. 127 – 178.

3. Sally M. Jones, Shelley C. Rhoades-Catanach (2011), Principles of Taxation for Business and Investment Planning, Mc Graw – Hill Irwin.



4. Tamara K. Kowalczy (2001), “Single – Case Technique for Teaching the Tax Research Process”, Accounting Education, Volume 10, number 1, pp. 15 – 25.

5. William A. Raabe, Gerald E. Whittenburg, Deberal Sanders (2005), Ferderal Tax Research, Cengage Learning.

tải về 95.6 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương