PHẦn thứ nhất kết quả thực hiện nghị quyếT ĐẠi hội XX nhiệm kỳ 2010 – 2015



tải về 304.64 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích304.64 Kb.
#15519
  1   2   3   4

Xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi nguồn lực để phát triển thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại



(Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XX tại Đại hội đại biểu lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đảng bộ thành phố)
Đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tiến hành vào thời điểm đất nước đã trải qua 30 năm đổi mới, hội nhập và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XX, nhiệm kỳ 2010 - 2015; quyết định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng thành phố giai đoạn 2015 - 2020, tạo động lực mới để thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh, bền vững, phát huy vai trò đối với khu vực miền Trung - Tây nguyên và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước; thảo luận, đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội XII của Đảng; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố và bầu Đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố dự Đại hội XII của Đảng. Với nhiệm vụ nêu trên, Đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu chặng đường phát triển mới của Đà Nẵng.
PHẦN THỨ NHẤT

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XX  NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố, bên cạnh những thuận lợi, thành phố cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội và tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Tuy nhiên, với tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết trong Đảng bộ và sự đồng thuận sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành; sự lãnh đạo, hỗ trợ kịp thời của Trung ương, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố gắn với thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW và Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị, thành phố đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.

A- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I- Về kinh tế - xã hội

Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn dự báo, thành phố đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai kịp thời các giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế, gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung thực hiện 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện giảm, giãn thuế, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất kinh doanh(1). Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội đạt kết quả tích cực. Cụ thể:



1- Kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển

Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng 9,7%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước, đến năm 2015 ước đạt 45.885 tỷ đồng, bằng 1,6 lần năm 2010; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, năm sau cao hơn năm trước, đến năm 2015 ước đạt 62,65 triệu đồng, tương đương 2.908 USD, gần bằng 2 lần năm 2010 (2); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP ước đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3% và nông nghiệp 2,1%.

Cơ cấu các thành phần kinh tế chuyển dịch tích cực, ước năm 2015, tỷ trọng kinh tế dân doanh ước tăng từ 60,1% lên 63,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 11% lên 12,8%, trong khi kinh tế nhà nước giảm từ 28,3% năm 2010 xuống còn 23,5%. Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế thành phố.

Đột phá về phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại thực hiện đạt kết quả rõ nét, giá trị sản xuất dịch vụ ước tăng 12,1%/năm, đến năm 2015 gấp 1,8 lần năm 2010, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Hạ tầng thương mại phát triển nhanh theo quy hoạch, hình thành hệ thống chợ, các trung tâm thương mại, siêu thị, khu phố chuyên doanh (3). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 16,8%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tăng 15,4%/năm, thị trường xuất khẩu được mở rộng đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.


Du lịch phát triển nhanh, dần khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn.

Hạ tầng du lịch được đầu tư phát triển mạnh; sản phẩm du lịch tăng về chất lượng, số lượng và đa dạng về loại hình (4). Cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế qua 7 năm tổ chức đã thu hút đông đảo du khách và trở thành sự kiện văn hóa, du lịch đặc sắc, góp phần quảng bá hình ảnh thành phố đến với bạn bè trong nước và quốc tế. Trên địa bàn hiện có 75 dự án du lịch đã và đang triển khai, vốn đầu tư 8,7 tỷ USD, nhiều dự án mang thương hiệu quốc tế (5) đã đưa vào hoạt động, tạo diện mạo mới, sức hấp dẫn, thu hút và lưu giữ du khách. Giai đoạn 2011 - 2015, tổng lượt khách đến thành phố ước đạt 16,4 triệu lượt người, tăng 20,1%/năm, trong đó, khách quốc tế 4 triệu lượt, tăng 25,5%/năm; thu nhập từ du lịch ước đạt gần 40.000 tỷ đồng, tăng 30,6%/năm.

Dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông phát triển với quy mô ngày càng lớn, riêng doanh thu công nghệ thông tin ước tăng 24,1%/năm, trong đó, kim ngạch xuất khẩu phần mềm ước tăng 26%/năm, thị trường chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản và khu vực châu Âu… Chất lượng dịch vụ vận tải ngày càng cao, doanh thu ước tăng 22,6%/năm. Sân bay quốc tế Đà Nẵng được đầu tư nâng cấp, đón 5 triệu lượt khách/năm (2014). Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm phát triển đa dạng; vốn huy động ước tăng 14,2%/năm; dư nợ cho vay ước tăng 10,1%/năm. Các dịch vụ giáo dục và đào tạo, y tế... phát triển khá, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định và từng bước phát triển theo chiều sâu, giá trị sản xuất ước tăng 10%/năm. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chuyển đổi tích cực (6), công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, công nghiệp hỗ trợ bước đầu phát triển, chiếm hơn 25% giá trị sản xuất toàn ngành. Một số dự án sản xuất công nghiệp có quy mô lớn, như: cao su, lắp ráp ô-tô, điện, điện tử, sữa, bia,… được đầu tư mới, mở rộng sản xuất (7), góp phần hình thành các sản phẩm mới, tạo giá trị gia tăng cao, cải thiện tăng trưởng công nghiệp trong cả nhiệm kỳ.

Đột phá về thu hút đầu tư công nghiệp công nghệ cao thực hiện đạt kết quả bước đầu, công nghiệp công nghệ thông tin phát triển đa dạng và đồng bộ, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng (8). Thành phố đã tập trung xây dựng hạ tầng, ban hành chính sách ưu đãi đầu tư vào Khu Công nghệ cao, đến quý I-2015, đã thu hút được 3 dự án đầu tư (9). Bên cạnh đó, tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng, rà soát, nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại 6 khu công nghiệp đang hoạt động.

Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cấu trúc lại ngành, phát triển theo chiều sâu và nâng cao giá trị gia tăng; bước đầu hình thành được một số mô hình chuyên canh giống lúa, trồng hoa, rau an toàn, nuôi trồng thủy sản nước ngọt, sản xuất nấm ăn, với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế tăng lên; giá trị sản xuất ước tăng 4,5%/năm.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đạt kết quả khả quan, huy động hơn 1.700 tỷ đồng để đầu tư, tạo thay đổi nhanh diện mạo nông thôn, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Dự kiến đến cuối năm 2015 huyện Hòa Vang đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Công tác quản lý, bảo vệ rừng, kiểm tra, phòng, chống chặt phá, cháy rừng được chú trọng; tỷ lệ che phủ rừng đến cuối năm 2015 ước đạt 42%.

Kinh tế biển được chú trọng đầu tư phát triển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển, như: cảng biển, cảng cá, đường giao thông, các khu du lịch ven biển... được đầu tư xây dựng, khai thác hiệu quả hơn, trong đó, hạ tầng cảng biển được đầu tư phát triển, hình thành cảng container có quy mô lớn, hiện đại của khu vực. Sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng ước tăng 14,5%/năm, đến cuối năm 2015 ước đạt 6,5 triệu tấn.

Thành phố thực hiện tốt các chính sách của Trung ương, đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu khai thác hải sản, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, góp phần nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ (10). Số lượng tàu công suất 90 CV trở lên tăng nhanh, bình quân năm 2010 là 41,7 CV/tàu, năm 2015 là 125,86 CV/tàu. Sản lượng khai thác hải sản đạt 34.640 tấn/năm.

Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, liên kết hợp tác trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng và có hiệu quả. Đã phối hợp tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị để tăng cường hợp tác, liên kết vùng về giao thông, kinh tế biển, du lịch, đào tạo, y tế...; thành lập Tổ điều phối và Quỹ đầu tư nghiên cứu phát triển các tỉnh duyên hải miền Trung. Các hoạt động hữu nghị, giao lưu, đối ngoại nhân dân trên các lĩnh vực được đẩy mạnh, góp phần thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao vị thế của thành phố trong khu vực và quốc tế. Việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện khá tốt (11). Tổng vốn đầu tư phát triển ước đạt 159.170 tỷ đồng, tăng 9,4%/năm.  

Công tác quản lý, điều hành ngân sách được thực hiện chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả. Cơ cấu nguồn thu chuyển biến tích cực, nguồn thu phát sinh từ kinh tế có tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng. Giai đoạn 2011 - 2015, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 58.233 tỷ đồng, tăng 0,7%/năm, trong đó thu nội địa (không kể thu tiền sử dụng đất) ước đạt 32.855 tỷ đồng, tăng 11,2%/năm; tổng thu cân đối ngân sách địa phương ước đạt 80.240 tỷ đồng (12). Thành phố đã cơ cấu lại chi, đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 69.558 tỷ đồng, giảm 4,8%/năm.

2- Quản lý, thực hiện tốt công tác quy hoạch, huy động nhiều nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại

Công tác quy hoạch, quản lý thực hiện quy hoạch, nhất là quy hoạch xây dựng, quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị và môi trường được chú trọng thường xuyên. Thành phố đã chủ động nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đã ban hành quy định quản lý đồ án điều chỉnh quy hoạch chung, làm cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch các ngành, các lĩnh vực. Thường xuyên rà soát, cập nhật và khớp nối các đồ án quy hoạch; rà soát và hủy các dự án quy hoạch không khả thi, xử lý một bước đối với các dự án treo, chậm triển khai (13) gắn với việc giải quyết các quyền lợi cho nhân dân. Tiến hành rà soát quỹ đất, xử lý cơ bản nợ đất tái định cư thực tế từ năm 2014 trở về trước, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch, tạo sự phấn khởi, đồng thuận, giúp dân vùng dự án ổn định cuộc sống.

Thành phố tiếp tục thực hiện chủ trương tạo vốn từ quỹ đất, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương, quỹ đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các hình thức đầu tư BOT, BT... để đầu tư xây dựng, hoàn thành nhiều công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, hiện đại, tạo điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan đô thị, như: cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Nguyễn Tri Phương, Nút giao thông khác mức ngã ba Huế, đường vành đai phía Nam, Trung tâm hành chính thành phố, Nhà ga sân bay quốc tế...

Tốc độ đô thị hóa tiếp tục diễn ra nhanh, ranh giới đô thị mở rộng thêm gần 2.000 ha (14)  so với năm 2010, về các hướng Tây, Tây - Bắc, Nam, Đông - Nam phù hợp với quy hoạch được phê duyệt. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, cấp điện, nước, điện chiếu sáng, cây xanh, xử lý rác thải... được đầu tư khá đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải tạo môi trường, cải thiện chất lượng sống của nhân dân, tạo diện mạo mới cho thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 32.069 tỷ đồng, bằng 46,1% tổng chi ngân sách địa phương.

Công tác quản lý đô thị, xây dựng, tài nguyên, môi trường được thực hiện khá tốt, tạo chuyển biến tích cực về trật tự, mỹ quan đô thị. Công tác quản lý Nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước đi vào nền nếp; rà soát, bố trí sử dụng có hiệu quả quỹ đất để phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường quản lý, kiểm tra các hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản, ngăn chặn và xử lý kịp thời tình trạng khai thác tài nguyên, khoáng sản trái phép.

Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường” được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực (15); tập trung xử lý các điểm nóng về môi trường, các điểm ngập nặng, giữ gìn vệ sinh môi trường tại các bãi biển. Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và xã hội. Với kết quả trên, thành phố được nhận nhiều giải thưởng lớn của quốc tế về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (16).



3- Quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội; tăng cường xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn

Giáo dục và đào tạo được đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trường, lớp được xây dựng và phát triển theo quy hoạch, kịp thời điều chỉnh, bổ sung theo hướng chuẩn hóa và xã hội hóa (17). Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được chuẩn hóa; công tác quản lý giáo dục, cơ sở vật chất trường học được tăng cường, tạo sự chuyển biến cả về giáo dục chất lượng cao và giáo dục đại trà; khoảng cách chất lượng giáo dục giữa nội thành và ngoại thành dần thu hẹp; cơ bản khắc phục tình trạng tuyển sinh trái tuyến tại các trường học ở trung tâm.

Nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế. Truyền thống hiếu học và khuyến học tiếp tục được phát huy. Hoạt động đào tạo nghề được chú trọng (18), từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục phát triển (19), góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho thành phố và các địa phương trong khu vực. Đặc biệt, việc thực hiện đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực cả về thu hút, đào tạo và bồi dưỡng, nhất là trong khu vực công (20).

Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng và đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của các ngành, địa phương (21). Thành phố là địa phương đi đầu trong việc thực hiện khoán thí điểm đến sản phẩm khoa học công nghệ cuối cùng; hình thành Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa (22). Công tác quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng được thực hiện khá tốt, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Trên lĩnh vực y tế, thành phố tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, phát triển y tế chuyên sâu, bệnh viện chuyên khoa (Bệnh viện Ung thư, Bệnh viện Phụ sản - Nhi, khoa Ung bướu và khoa Y học nhiệt đới tại Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện Y học cổ truyền cơ sở 2...); hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đẩy mạnh xã hội hóa và phát triển hệ thống y tế ngoài công lập..., góp phần thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (23); 92,5% số dân tham gia bảo hiểm y tế. Các hoạt động y tế dự phòng, phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm (24).

Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển đa dạng và có nhiều tiến bộ. Thành phố chú trọng công tác trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể; tổ chức sưu tầm, triển lãm tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tập trung đầu tư xây dựng nhiều công trình, thiết chế văn hóa quan trọng (25). Tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao lớn (26), góp phần từng bước hình thành thương hiệu thành phố văn hóa, du lịch, thành phố sự kiện. Đội ngũ văn nghệ sĩ có nhiều cố gắng trong sáng tạo văn học và nghệ thuật, bám sát thực tiễn sinh động của thành phố, khắc họa những giá trị truyền thống của quê hương.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu, gắn kết có hiệu quả với Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị”, triển khai “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, góp phần nâng cao dân trí, tạo nền tảng tinh thần, động lực mới cho phát triển.

Hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Các cơ quan báo, đài thành phố có bước phát triển mới, ngày càng khẳng định vai trò kênh thông tin thiết yếu trong việc tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố.


Phong trào thể dục, thể thao được quan tâm đầu tư phát triển, nhất là thể thao thành tích cao, đoạt nhiều giải thưởng ở các giải quốc gia, khu vực và thế giới. Một số công trình thể thao trọng điểm được tập trung đầu tư, đảm bảo đăng cai, tổ chức các giải đấu quốc gia và khu vực (27).

Công tác đảm bảo an sinh xã hội gắn với chương trình thành phố “5 không”, “3 có” được thực hiện tốt. Trong 3 năm 2011 - 2013, với chủ đề “Năm an sinh xã hội”, thành phố tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc. Mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành, Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm (năm 2012), giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm (năm 2015), đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố (28).

Đến nay “Không có học sinh bỏ học” do hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Mục tiêu “Không có người lang thang xin ăn” được tăng cường với nhiều biện pháp xử lý tình trạng lang thang xin ăn biến tướng, bán hàng rong. Thành phố kiên trì thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”, chú trọng công tác quản lý cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai, hạn chế phát sinh các điểm nóng về ma túy; có nhiều nỗ lực trong kiểm soát mục tiêu “Không có giết người để cướp của”.

Đề án “Có nhà ở” được triển khai đồng bộ bằng cả nguồn vốn ngân sách và xã hội hóa, hướng tới người có thu nhập thấp và hộ nghèo (29). Đặc biệt, năm 2014, 2015 đã hoàn thành Đề án xây dựng, sửa chữa gần 2.000 nhà ở cho các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân Làng Vân. Công tác quản lý, sử dụng nhà chung cư đi vào nền nếp, các sai phạm được xử lý nghiêm, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đề án “Có việc làm” được quan tâm thực hiện, tổ chức tốt các phiên giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động, hằng năm giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 55%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đến cuối năm 2015 ước giảm còn 4,15% (cuối năm 2010 là 4,9%).

Đời sống tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng, hoạt động tôn giáo thuận lợi, phù hợp với chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Công tác dân tộc được đẩy mạnh, chăm lo phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã miền núi nói chung, đồng bào dân tộc nói riêng. Đời sống của đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt; không còn hộ đồng bào dân tộc đặc biệt nghèo.               

Có thể khẳng định, việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện 5 đột phá theo Nghị quyết Đại hội XX đã góp phần phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo sức bật mới cho thành phố. Các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại, đa dạng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động, đáp ứng nhu cầu sản xuất, đời sống và hội nhập quốc tế. Xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Công nghệ cao bước đầu đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư. Công nghệ thông tin phát triển khá, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng.

Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đạt kết quả quan trọng, nhiều công trình trọng điểm đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho thành phố. Đã xây dựng và triển khai tích cực các chương trình, đề án phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa; các chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường” được thực hiện tốt, mang đậm tính nhân văn và dần hình thành nét văn hóa của thành phố. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực, góp phần tạo chuyển biến và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực cho thành phố.

II- Về quốc phòng, an ninh

Công tác quốc phòng, an ninh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân không ngừng được củng cố. Công tác giáo dục và phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên; ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc nói chung, Biển Đông và huyện đảo Hoàng Sa nói riêng được nâng lên.

Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân được chú trọng xây dựng. Hoàn thành quy hoạch và xây dựng các công trình quốc phòng, khu vực phòng thủ đảm bảo theo kế hoạch. Thực hiện chặt chẽ chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, nhất là trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án đầu tư. Chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ thành phố, quận, huyện; diễn tập chiến đấu trị an cấp phường, xã; diễn tập vận hành cơ chế đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt.

Chỉ tiêu tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ đạt 100% với chất lượng tốt; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số; thực hiện chặt chẽ công tác đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên và công tác hậu phương quân đội. Chăm lo đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, xây dựng lực lượng vững mạnh; nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Lực lượng vũ trang thành phố, các đơn vị của Bộ Quốc phòng, Quân khu đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng nông thôn mới, xây dựng thực lực chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở.

An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo, không để bị động bất ngờ; triển khai hiệu quả phương án chủ động đối phó, xử lý đúng đắn, hiệu quả các tình huống kích động, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định, bảo đảm môi trường đầu tư, các hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân, nhất là trong thời điểm Trung Quốc đưa trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng, cùng với hoạt động tấn công, trấn áp các loại tội phạm đã góp phần kiềm chế các vụ trọng án (30). Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực; không để xảy ra đua xe trái phép, ùn tắc giao thông kéo dài; ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông được nâng lên; tai nạn giao thông giảm trên cả 3 tiêu chí (31). Lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy sau khi được tổ chức lại, nhanh chóng ổn định, đi vào hoạt động, góp phần ngăn chặn, hạn chế nguy cơ cháy, nổ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà nước.



III- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

1- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới

Tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với nhiều hình thức sáng tạo, nền nếp, trở thành công việc thường xuyên của nhiều tổ chức và cá nhân; việc “làm theo” từng bước đi vào chiều sâu, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trong các cấp, các ngành tạo sự lan tỏa trong xã hội(32).

Thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các nhóm giải pháp theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở các cấp, các ngành được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, thận trọng và đảm bảo yêu cầu; sau kiểm điểm, các đơn vị đã từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần nâng cao nhận thức, cảnh báo và ngăn chặn một bước sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tinh thần tự phê bình, phê bình, xây dựng, tính tiên phong gương mẫu được phát huy; đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng được nâng cao.

Công tác tư tưởng được coi trọng và có chuyển biến tích cực; từng bước đổi mới phương thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, đề cao ý thức tự nghiên cứu, thảo luận để tạo sự thống nhất nhận thức, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện phù hợp với thực tiễn địa phương (33). Đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần phòng chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Công tác nghiên cứu lý luận, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ được tăng cường. Công tác khoa giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Việc sưu tầm, biên soạn lịch sử, phát huy truyền thống được đẩy mạnh (34). Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước, của thành phố.

Tổ chức bộ máy Đảng, hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Tập trung triển khai thực hiện Kết luận 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp ủy trực thuộc Thành ủy.

Thành lập Ban Nội chính Thành ủy, sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng phù hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp (35); sắp xếp các ban chỉ đạo, các tổ chức phối hợp liên ngành. Tiến hành thí điểm mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp; tăng thêm chức danh phó bí thư đảng ủy đối với một số phường, xã; sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn và tổ chức đảng dưới phường, xã.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên, các cơ sở yếu kém được củng cố, kiện toàn; chất lượng sinh hoạt chi bộ được cải thiện, sinh hoạt chuyên đề được vận dụng triển khai có kết quả; vai trò bí thư chi bộ và cấp ủy được coi trọng. Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể trong trường học, trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được tăng cường. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được thực hiện nghiêm túc (36). Phát triển đảng viên hằng năm tăng về số lượng và chất lượng (37). Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc giới thiệu đảng viên đương chức về sinh hoạt, giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp ủy nơi cư trú.

Công tác cán bộ có chuyển biến, quy trình tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ; thí điểm thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý (38); triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cấp cơ sở. Bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ vào ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực cấp ủy các cấp, cơ bản đảm bảo sự chuyển giao kịp thời, ổn định giữa các thế hệ lãnh đạo. Chính sách cán bộ đảm bảo thực hiện kịp thời, công bằng, khách quan. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tăng cường. Việc thẩm định lịch sử chính trị và chính trị hiện nay phục vụ công tác phát triển đảng và công tác cán bộ được thực hiện nghiêm túc, góp phần bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng trên cả mặt lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tổ chức có hiệu quả các cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Trung ương và Thành ủy. Ủy ban kiểm tra các cấp hoạt động khá nền nếp, đảm bảo đúng nguyên tắc Điều lệ Đảng, bám sát nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng; phương pháp kiểm tra, giám sát chủ động, linh hoạt, phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, góp phần ngăn chặn và hạn chế tiêu cực, sai phạm của cán bộ, đảng viên, giữ gìn đoàn kết thống nhất, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra được nâng cao hơn trước.


Công tác dân vận được tăng cường, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác dân vận được nâng cao, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Công tác dân vận của các cơ quan chính quyền ngày càng được chú trọng. Nhiều phong trào của nhân dân đi vào chiều sâu thiết thực, nhất là phong trào “Dân vận khéo”, “Cả thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới”. Chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội bước đầu được triển khai và phát huy hiệu quả. Cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đã có nhiều cuộc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, lắng nghe và quan tâm giải quyết các kiến nghị, nguyện vọng của nhân dân.

Công tác nội chính được quan tâm kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,  phát huy hiệu quả bước đầu trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp, bảo vệ an ninh quốc gia và phòng chống tham nhũng; xử lý có kết quả những vụ án phức tạp, kéo dài, còn có ý kiến khác nhau và những vấn đề có liên quan trong hoạt động tư pháp. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức trách nhiệm và tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.   

Phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, phát huy sức mạnh tập thể, mở rộng dân chủ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Vận dụng thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng phù hợp với tình hình của địa phương, chú trọng khâu tổ chức thực hiện kết hợp với tăng cường kiểm tra, giám sát. Quan tâm sơ kết, tổng kết, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp với thực tiễn (39). Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan chính quyền và xã hội được tăng cường, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, sự vận hành của hệ thống chính trị. Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp được phát huy, chú trọng việc bám sát cơ sở, trực tiếp đối thoại, lắng nghe nhân dân, doanh nghiệp, từ đó đề ra chủ trương, định hướng xử lý kịp thời, đúng đắn, hợp lòng dân.



Каталог: upload -> soft
soft -> Test 10 Phonetics: Chọn từ mà phần gạch chân có cách phát âm khác với những từ còn lại
soft -> PHÒng giáo dục và ĐÀo tạO Độc lập Tự do Hạnh phúc
soft -> TRƯỜng trung hoc phổ thông chuyên lê quý ĐÔN
soft -> NHẰm giúp các học sinh hiểu rõ HƠn một số khái niệm cơ BẢn và CÁc cụm từ viết tắt trong đỊa lý
soft -> Ôn tập chủ ĐỀ ĐẠi số TỔ HỢp nhận xét
soft -> Một thuật toán nổi tiếng Euclide Thuật toán Euclide
soft -> Bài toán "đèn nhấp nháy"
soft -> TRƯỜng thpt tôn thất tùNG
soft -> Ubnd quận hải châu cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
soft -> MÔn lịch sử 10 Bài 29: CÁch mạng tư SẢn hà lan và CÁch mạng tư SẢn anh cách mạnh tư sản Anh

tải về 304.64 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương