ĐẠO ĐỨc kinh doanh tại việt nam thực tại và giải pháp sv. Nguyễn Thị Nga



tải về 409.98 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích409.98 Kb.
#18144
  1   2   3   4

ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM -

THỰC TẠI VÀ GIẢI PHÁP

SV. Nguyễn Thị Nga
Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
1. Giới thiệu chung
1.1 Khái niệm về đạo đức kinh doanh
Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xă hội loài người, bắt

nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học. Đạo đức liên quan tới

những cam kết về luân lư, trách nhiệm và công bằng xă hội. Đạo đức trong tiếng Anh là

ethics, từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ethikoethos, nghĩa là phong tục hoặc tập quán.

Như Aristoteles đă nói, khái niệm trên bao gồm ư tưởng cả về tính chất và cách áp dụng. V́

vậy, đạo đức phản ánh tính cách của cá nhân và trong thời đại ngày nay th́ có thể nói lên cả

tính chất của một doanh nghiệp, v́ doanh nghiệp chính là tập hợp của các cá nhân.
Đạo đức kinh doanh là một khái niệm không cũ mà cũng không mới. Với tư cách là

một khía cạnh luân lư trong hoạt động thương mại, đạo đức kinh doanh đă lâu đời như chính

thương mại vậy. Trong bộ luật Hammurabi từ khoảng 1700 TCN, đă có quy định về giá cả,

thuế quan, cách thức hoạt động thương mại và cả h́nh phạt hà khắc cho những kẻ không tuân

thủ. Đó có thể được coi là bằng chứng cho sự nỗ lực đầu tiên của xă hội loài người để phân

định ranh giới đạo đức cho các hoạt động kinh doanh. Trong tác phẩm “Politics” (ra đời vào

khoảng năm 300 TCN), Aristoteles đă chỉ ra rơ ràng những mối liên hệ thương mại khi bàn về

quản lư gia đ́nh. Giáo lư của cả đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, ví dụ như trong Talmud

(năm 200 sau Công nguyên) và Mười điều răn (Exodus 20:2 - 17; Deuteronomy 5:6 - 21), đều

đă đưa ra những quy tắc đạo đức được áp dụng trong hoạt động thương mại.


Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm mang tính hàn lâm, đạo đức kinh doanh

cũng mới chỉ tồn tại được khoảng bốn chục năm trở lại đây. Nhà nghiên cứu đạo đức kinh

doanh nổi tiếng Norman Bowie là người đầu tiên đă đưa ra khái niệm này trong một Hội

nghị Khoa học vào năm 19741. Kể từ đó, đạo đức kinh doanh đă trở thành một chủ đề phổ

biến trong các cuộc tranh luận của các lănh đạo trong giới kinh doanh, người lao động, các

cổ đông, người tiêu dùng cũng như các giáo sư đại học ở Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới.

Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà nghiên cứu, các tác giả và diễn giả đều có chung

quan điểm về đạo đức kinh doanh. Trước hết, giữa kinh doanh và đạo đức luôn có sự mâu

thuẫn. Một mặt, xă hội luôn mong muốn các công ty tạo ra nhiều việc làm lương cao, nhưng

1 Marcoux, A.M (2006), “The concept of business in business ethics”, Journal of private enterprise”, April 1, 2006.

1

mặt khác, những công ty này lại mong muốn giảm bớt chi phí và nâng cao năng suất lao

động. Người tiêu dùng luôn mong muốn mua hàng với giá thấp nhất c̣n các cơ sở thương

mại lại muốn có lăi suất cao nhất. Xă hội mong muốn giảm ô nhiễm môi trường, c̣n các

công ty lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi

trường trong hoạt động sản xuất của họ. Chính từ đó đă nảy sinh xung đột không thể tránh

khỏi trong quan niệm về đạo đức kinh doanh, do khác biệt về lợi ích của công ty với lợi ích

của người lao động, người tiêu dùng và toàn thể xă hội. V́ tất cả những điều đối lập nói trên

là tất yếu nên các nhà quản lư buộc phải làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích

của các cổ đông (shareholders) và những người có quyền lợi liên quan (stakeholders), bao

gồm nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng2.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đă đưa ra rất nhiều khái niệm về đạo đức kinh

doanh, trong đó khái niệm sau có thể được coi là đơn giản nhất: Đạo đức kinh doanh là



những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm điều chỉnh hành vi của các

nhà kinh doanh3. Định nghĩa này khá chung chung, v́ thế cũng bỏ qua nhiều nhân tố quan

trọng, ví dụ như: những loại hành vi nào những nguyên tắc đạo đức có thể điều chỉnh; Hay

những ai có thể được coi là “nhà kinh doanh” và hành vi của họ cần được điều chỉnh như

thế nào?
Ư thức được sự phức tạp của vấn đề, giáo sư Phillip V. Lewis từ trường Đại học

Abilene Christian, Hoa Kỳ đă tiến hành điều tra và thu thập được 185 định nghĩa được đưa

ra trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm 1961 đến 1981 để t́m ra “đạo đức

kinh doanh” được định nghĩa ra sao trong các tài liệu nghiên cứuvà trong ư thức của các nhà

kinh doanh. Sau khi t́m ra những điểm chung của các khái niệm trên, ông tổng hợp lại và

đưa ra khái niệm về đạo dức kinh doanh như sau:
Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc

luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức)

trong những trường hợp nhất định”4.
Như vậy, theo khái niệm này, đạo đức kinh doanh bao gồm những vấn đề sau:
Quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc các luật lệ được đưa ra để thực hiện

nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên tắc đạo đức.Ví dụ như: Nếu Luật Lao động của một

quốc gia quy định phụ nữ có quyền ngang với đàn ông trong công việc, sẽ có thể ngăn chặn

sự phân biệt giới tính của những người thuê lao động khi tuyển dụng.


Hành vi đúng với đạo đức - hành vi cá nhân phù hợp với lẽ công bằng, luật pháp và

các tiêu chuẩn khác; hành vi cá nhân phải đúng với thực tiễn, hợp lư và trung thực. Một


2 Vickers, Mark R., “Business Ethics and the HR Role: Past, Present, and Future”, Human Resource Planning,

January 1, 2005.

3 Brenner, S. N. (1992), "Ethics Programs and Their Dimensions". Journal of Business Ethics, 11,391-399

4 Phillip V. Lewis (1985), “Defining 'Business Ethics': Like Nailing Jello to a Wall”, Journal of Business Ethics 4

(1985) 377-383. 0167-4544/85/.15

2

người làm kinh doanh luôn phải lưu ư là mọi người đều phải có trách nhiệm với những hậu

quả xuất phát từ hành vi của ḿnh. Nghĩa là, người đó không được phép làm bất kỳ điều ǵ

có thể khiến h́nh ảnh của họ bị lung lay.


Sự trung thực - mỗi câu nói, mỗi hành động của họ đều phải mang tính thực tế hoặc

thể hiện sự thật. Có thể đưa ra ví dụ, như “Lời mở đầu của những quy tắc trong xă hội của

các nhà báo chuyên nghiệp” có ghi: “Chúng ta tin vào sự khai sáng xă hội như một người

tiên phong của công lư, cũng như tin vào vai tṛ của Hiến pháp trong t́m ra sự thật v́ một

phần quyền lợi của xă hội là được biết sự thật.”
Điều khó khăn nhất trong nghiên cứu đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói

riêng, chính là xác định cái ǵ đúng và cái ǵ sai. Điều được coi là đúng đắn về mặt đạo lư

với người này có thể không đúng với người khác; những điều hôm nay c̣n đúng th́ mai đă

thành sai. Lewis đă đặt tên nó là “Trường hợp đặc trưng - những t́nh huống mà sự lúng



túng trong suy xét đạo lư cá nhân cần đến phán quyết mang tính đạo đức”. Ví dụ: Hiệp hội

Y tế Hoa Kỳ thông qua nguyên tắc hoạt động khách quan của họ là “phục vụ nhân loại với



toàn thể sự tôn trọng phẩm cách con người”. Những bác sĩ điều trị phải quan tâm đến

không chỉ cá nhân người bệnh mà c̣n đến toàn xă hội”. Như vậy, bất kỳ hành vi nào

không v́ “mục đích nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng” sẽ được

coi là phi đạo đức.


Ferrels và John Fraedrich có một cách định nghĩa khác về đạo đức kinh doanh: theo

đó “Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành



vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai,

phù hợp với đạo đức hay không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,

các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lư cũng như cộng đồng”5.
V́ định nghĩa này có nhiều phần trùng với định nghĩa của Lewis nhưng lại thể hiện

rơ ràng hơn những người có liên quan đến đạo đức kinh doanh, nên sẽ được sử dụng trong

bài viết này. Theo định nghĩa này, đạo đức kinh doanh có rất nhiều điểm chung với sự tuân

thủ luật pháp, trách nhiệm của doanh nghiệp với xă hội, những vấn đề có liên quan đến

quyền lợi và nghĩa vụ về mặt đạo lư giữa công ty với cổ đông: như trách nhiệm ủy thác, so

sánh khái niệm cổ đông (shareholders) với khái niệm người có chung quyền lợi

(stakeholders)…Điều này có nghĩa là đạo đức kinh doanh không chỉ bao gồm việc tuân thủ

pháp luật mà c̣n quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan đến

hoạt động của doanh nghiệp và quyền lợi của cộng đồng.
1.2. Phương pháp và mục đích nghiên cứu
Bài viết này nhằm nghiên cứu những vấn đề sau đây: (1) Đạo đức kinh doanh là ǵ và

nó có điểm ǵ khác biệt với quan niệm chung về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam? (2) Thực

trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay và (3) Giải pháp để nâng cao đạo đức kinh

5 Ferrels and John Fraedrich , Business ethics- Ethical decision making and cases, Houghton Mifflin Company,

2005.

3

doanh ở Việt Nam trong tương lai. Cho dù gần đây có rất nhiều nghiên cứu và bài viết cả ở



trong và ngoài nước về Việt Nam nhưng hầu hết người viết và các nhà chuyên môn chỉ tập

trung vào phân tích các thành quả kinh tế của chúng ta. Một số bài báo có nhắc đến đạo đức

kinh doanh, nhưng cho đến nay, chưa có bài nào đưa ra cái nh́n tổng quan về thực trạng đạo

đức kinh doanh tại Việt Nam.


Các dữ liệu về chủ đề này được thu thập từ cả hai nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp.

Thông tin thứ cấp là những sách báo trong các lĩnh vực liên quan như kinh doanh, đạo đức

kinh doanh, Marketing và kinh doanh quốc tế. Các bài báo được lựa chọn từ “Business

Premier Source”, một cơ sở dữ liệu về các bài nghiên cứu có uy tín trên thế giới, từ năm

2000 đến nay. Thông tin sơ cấp được thu thập từ một cuộc điều tra xă hội học tiến hành tại

Hà nội cuối năm 2007. Hơn 100 nhà kinh doanh và sinh viên các khoa Kinh doanh Quốc tế

và Quản trị kinh doanh tại Đại học Ngoại thương đă được lựa chọn ngẫu nhiên để trả lời

một bản câu hỏi ngắn gọn. Ngoài phần những câu hỏi chung và cấu hỏi phân loại, nội dung

chính của bản câu hỏi này gồm 10 câu hỏi, bao gồm những vấn đề có liên quan đến đạo đức

kinh doanh như: “Bạn đă bao giờ nghe về đạo đức kinh doanh chưa?” hay “Đạo đức kinh



doanh, theo bạn, nghĩa là ǵ?” cho đến ư kiến trong một số trường hợp cụ thể. Sau khi loại

bỏ những phiếu trả lời không hợp lệ, chúng tôi thu được 100 bản trả lời, trong đó 80 bản là

của giới doanh nghiệp và 20 bản là của sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ 3 tại Đại học

Ngoại thương, Hà nội. Một số sinh viên đă từng làm việc bán thời gian tại các doanh

nghiệp. Phương pháp tỷ lệ trong phương pháp luận miêu tả đă được sử dụng để phân tích

các dữ liệu theo 3 giai đoạn. Trong giai đoạn 1, tất cả các bản trả lời được phân tích để đưa

ra một cái nh́n tổng quan về đạo đức kinh doanh ở VIệt Nam. Trong giai đoạn 2, chỉ những

câu trả lời của nhóm sinh viên được phân tích và trong giai đoạn 3, kết quả phân tích của 2

giai đoạn trên được so sánh với nhau để đưa ra kết luận.
2. Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh

doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt Nam

thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá tŕnh quốc tế hóa và ṭan cầu hóa vào

năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này chưa bao giờ

được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo,

v́ thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan

hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đă là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn

về chất lượng hàng hóa. V́ cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung

cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp

của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước,

nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều

làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản.

T́m được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đ́nh công

hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xă hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà

nước nên những phạm trù trên là không cần thiết.
4

Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được

xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đ́nh công, thị trường chứng

khoán… và v́ thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xă hội. Qua kết

quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng ta có thể rút ra

được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.


2.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở Việt

Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên về đề tài này được xuất

bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT'S ETHICAL IN BUSINESS?” by Verne E.

Henderson, của Nhà xuất bản McGraw - Hill Ryerson. Cuốn sách này được dịch giả Hồ

Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là ǵ?” và được Nhà Xuất bản Văn hóa phát hành

tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ, không đầy đủ, nên đă không

gây được nhiều sự chú ư trong giới nghiên cứu ở Việt Nam. Thời gian gần đây, do áp lực

của tiến tŕnh toàn cầu hóa, đă có khá nhiều bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta

(Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn

doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Pḥng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo và tạp chí

khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài G̣n, báo Lao động, etc. Nhưng các bài báo

này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan

đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên các sach báo nước ngoài, chứ

không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu

hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này,

hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở h́nh thức môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có

liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm

này, hoặc nếu có th́ nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo tŕnh môn Văn hóa kinh

doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho Đạo đức kinh

doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luập trong kinh doanh! Quan

niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan trọng của khái niệm này. Do áp lực

của tiến tŕnh toàn cầu hóa, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều

đến vấn đề này nhưng lại không đưa ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính v́ vậy,

mặc dù thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các

doanh nghiệp về vấn đề này c̣n khá mơ hồ. Thực trạng đó đă được thể hiện khá rơ qua kết

quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi thường xuyên nghe nhắc đến những vấn đề

liên quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến vấn đề này. Lưu ư là cuộc

điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên

con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh

doanh, 55/60 số người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có

5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không

ai cho đạo đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này

về đao đức kinh doanh đă dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.

5

2.2. Trách nhiệm của doanh nghiệp với xă hội (corporate social responsibility - CSR)
Để t́m hiểu vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 2 khía cạnh, trách nhiệm của doanh

nghiệp với chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường. Câu hỏi thứ nhất về vấn đề

này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm ǵ nhận được thông tin là có một số hàng hóa của

ḿnh bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém chất lượng, mà bằng h́nh thức bên ngoài

không có khả năng phân biệt được, có thể gây tác hại cho người tiêu dùng?”. Câu hỏi này

dựa trên một t́nh huống có thật là năm 1981, một người bệnh tâm thần đă cho thuốc độc

vào một số lọ thuốc giảm đau nhăn hiệu Tylenol do Johnson & Johnson (J&J) sản xuất và

bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong những siêu thị ở thành phố Chicago. Sự kiện trên

đă làm bảy người thiệt mạng và cảnh sát không bắt được thủ phạm. Mặc dù vụ việc đáng

tiếc này chỉ xảy ra ở Chicago và bộ phận an ninh cho rằng người thủ phạm chỉ cho thuốc

độc vào một số lọ Tylenol đă bày bán ở những siêu thị này, ban lănh đạo J&J đă cương

quyết tiến hành thu hồi để kiểm định toàn bộ 31 triệu lọ thuốc Tylenol đă phân phối không

chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, v́ theo J&J, không có ǵ bảo đảm là thủ phạm chỉ bỏ thuốc độc

vào các lọ Tylenol lúc đă bày bán, mà không bỏ vào trong lúc sản xuất hoặc trước khi được

phân phối. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên là 100 triệu USD. Tuy nhiên, sự thể

hiện trách nhiệm xă hội cao của công ty Johnson & Johnson cộng thêm chiến dịch PR đúng

đắn đă giúp Tylenol giành lại vị trí trên thương trường chỉ trong ṿng 6 tháng. Nhưng trong

cuộc diều tra của chúng tôi, chỉ có 42 người , chiếm 42%, chọn phương án “Thu hồi ngay



toàn bộ lô hàng đó, chấp nhận thua thiệt về kinh tế”, 50 người, chiếm 50% chọn phương án

là “Thông báo tại nơi bán, và để người tiêu dùng tự quyết định”, thậm chí có 8 người, chiếm

8%, chọn phương án ”Không làm ǵ cả, v́ không phải lỗi tại công ty của ḿnh”!
Câu hỏi thứ hai là: ”Cho biết quan điểm của bạn, khi một công ty XK sang thị trường

EU nước tương có tỷ lệ chất 3 - MPCD nằm trong phạm vi cho phép của Luật Việt Nam,

nhưng lại vượt gấp nhiều lần tỷ lệ cho phép của EU?” cũng dựa trên một sự kiện có thật là

năm 2002, nước tương của Chinsu, một công ty khá có tiếng ở Việt Nam, đă bị Cơ quan

kiểm nghiệm chất lượng thực phẩm của Bỉ phát hiện có chứa chất 3 - MCPD - một chất độc

hóa học có thể gây bệnh ung thư ở động vật và con người - ở mức 86 mg/ kg, trong khi đó,

tiêu chuẩn của EU chỉ cho phép ở mức 0.05 mg/ kg, tức là gấp gần 200 lần. Nhưng công ty

Chinsu tuyên bố không chịu trách nhiệm v́ họ không XK nước tương sang Bỉ. Sản phẩm đó

có thể được một công ty nào khác tái xuất sang hoặc là hàng nhái. Hơn nữa, tuy hàm lượng

3 - MCPD trong nước tương của họ cao hơn mức quy định của EU nhưng lại nằm trong

phạm vi cho phép của Việt Nam! Sự kiện này lần đầu tiên đă cảnh báo các cơ quan chức

năng và người tiêu dùng Việt Nam về tác hại của chất 3 - MCPD trong nước tương, một sản

phẩm vốn được coi làa an toàn v́ sản xuất từ đậu tương, là sản phẩm tự nhiên. Đây chính là

yếu tố châm ng̣i cho scandal năm 2007 về việc 90% doanh nghiệp sản xuất nước tương ở

Việt Nam bị cơ quan chức năng tuyên bố vi phạm VSATTP, do hàm lượng chất 3 - MCPD

vượt quá mức cho phép, gây điêu đứng cho ngành công nghiệp này. Kể từ đó, toàn thể các

doanh nghiệp sản xuất nước tương đều được yêu cầu phải dán nhăn: “Không có 3 - MCPD

lên sản phẩm của ḿnh.

6

Có lẽ do vụ việc này đă quá nổi tiếng nên quan điểm của người được hỏi trong cuộc



điều tra này đă rơ ràng hơn. 33% số người được hỏi cho đó là “Vi phạm luật pháp”, 25%

cho là “Vi phạm đạo đức kinh doanh” và 42% cho là vi phạm cả hai! Không ai coi doanh

nghiệp là không vi phạm. Nhưng kết quả này vẫn cho thấy sự mơ hồ trong phân định giữa

luật pháp và đạo đức kinh doanh, v́ ở đây đúng ra là doanh nghiệp đă vi phạm cả hai, do khi

XK hàng hóa vào nước nào phải tuân thủ quy định của nước đó.
Câu hỏi về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế là có

nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam đă lợi dụng những yếu kém trong quy

định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản xuất gây ô nhiễm

môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư, nhằm tiết kiệm chi phí.

Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các nhà máy dệt không có thiết bị

làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và cư dân xung quanh, nhà máy da giầy

sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước, các công ty xây dựng không che chắn công

tŕnh gây ô nhiễm cho khu vực, không có thiết bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai

nạn lao động cao….Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp nhưng

rơ ràng đă cố t́nh vi phạm đạo đức kinh doanh, v́ họ hoàn toàn ư thức được tác hại của hành

vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung và ôn ḥa! Trả lời cho

câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt

Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam?“, chỉ có

75% cho là “Không thể chấp nhận được, họ đă vi phạm đạo đức kinh doanh”, c̣n 25% lại

cho là “B́nh thường thôi, kinh doanh cần biết tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế

là vấn đề môi trường c̣n ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam c̣n quá lệ thuộc

vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ (Intellectual property) ở Việt Nam
Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà c̣n ở hầu hết các nước đang phát

triển khác. T́nh trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân. Trước hết,

cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những thành tựu về các sản

phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu như chưa có, nên không có

các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền văn hóa trọng tập thể, người Việt

Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân. Trong thời phong kiến và cả thời kỳ

trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật

pháp không quy định chế độ bản quyền tác giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi v́ quan niệm là

phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam tham

gia vào tiến tŕnh hội nhập và nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam kư Hiệp định TRIPS.

Nhưng với thời gian quá ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm

của các nước Âu - Mỹ, ư thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam c̣n rất sơ

sài. Một lư do nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi

thu nhập của người dân c̣n quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá

cao và rất phổ biến th́ khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng. Một ví dụ về vấn đề này

là về việc xuất bản cuốn sách về cậu bé phù thủy Harry Potter của J.K. Rowling, một tác


7

phẩm văn học thiếu nhi rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Tháng 8 năm 2007, cùng với thiếu

nhi trên toàn thế giới, trẻ em Việt Nam rất hồi hộp chờ mong tập 7 và cũng là tập cuối cùng

trong Bộ sách này: Harry Potter and the Deathly Hallows, nhưng lúc đó chỉ có bản tiếng

Anh. Cùng với phong trào học tiếng Anh, việc đọc sách bằng nguyên bản ngày càng phổ

biến hơn. Hơn nữa, nếu muốn đọc bản dịch các em sẽ phải chờ chừng 6 tháng nữa. Nhưng

các bậc cha mẹ ở Việt Nam lại bị đặt trước một t́nh thế nan giải nếu họ muốn bảo vệ bản

quyền. Giá b́a của quyển sách này là 38 USD, trong khi thu nhập b́nh quân đầu người của

Việt Nam năm 2007 chỉ ở mức trên 600 USD và giá sách lậu chỉ có khoảng 7 USD6.
Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố t́nh đặt tên cho

nhăn hiệu hàng hóa của ḿnh tương tự một nhăn hiệu nổi tiếng đă có trước để trốn tránh luật

pháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho t́nh trạng này quá nhiều, như Hongda

và Honda, La Vierge và La Vie, … Kết quả điều tra về vấn đề này đă khẳng định cho nhận

định trên về SHTT ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc

một công ty cố t́nh đặt tên nhăn hiệu hàng hóa của ḿnh gần giống với một nhăn hiệu hàng

hóa nổi tiếng ?", chỉ có 16 người cho là “Vi phạm luật pháp“, 37 người cho là: ”Vi phạm đạo

đức kinh doanh“, và 47 người cho là: “Không vi phạm ǵ cả v́ không hoàn toàn giống“. Đáng

chú ư là trong số 47 người không cho là vi phạm, có 8 người sinh viên, là nhóm người ít nhiều

có được học về vấn đề này, chứng tỏ SHTT c̣n là vấn đề nan giải ở Việt Nam trong thời gian

tới.
2.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động


Thời gian qua, đ́nh công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Theo thống kê, từ

năm 1995 đến nay tại Việt Nam đă xảy ra hơn 1.000 cuộc đ́nh công lớn nhỏ. Chỉ tính riêng

trong quư 1/2007 đă xảy ra 103 cuộc đ́nh công tại 14/64 tỉnh, thành phố với hơn 62.700

lượt công nhân lao động tham gia. Nhiều nhất là tại Đồng Nai với 35 cuộc, tiếp đến là B́nh

Dương 22 cuộc, Tp.HCM 26 cuộc... trong đó 98/103 cuộc đ́nh công là do lư do kinh tế7.

Các nguyên nhân chính dẫn đến đ́nh công bao gồm:


- Người lao động không hài ḷng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm, công

cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức khỏe định

kỳ cho nhân công và t́nh trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối thiểu rất

thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm trái luật pháp

nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt bằng giá cả. V́

thế, người lao động không hài ḷng và không trung thành với doanh nghiệp.


- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao động và

thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên nanwg suất lao động thấp và có

những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.

6 Accountants face up to the moral maze”, Ian Fraser, The Financial Times 2nd of January, 2008

7 Dung Hieu, ng x khi xy ra đ́nh công, http://www.vneconomy.vn, 13/11/2007

8

Điều đáng ngạc nhiên là t́nh trạng này xảy ra không chỉ ở các doanh nghiệp tư nhân

trong nước, được coi là ít vốn và không am hiểu luật pháp, mà c̣n rất phổ biến ở nhiều

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan và Hàn Quốc. Theo Viện

Công nhân và Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 10 năm qua đă có 878

cuộc đ́nh công xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, chiếm 70,7% tổng số cuộc đ́nh công ở

Việt Nam.


Một ví dụ điển h́nh cho vấn đề này là sáng ngày 25 tháng 7 năm 2007, ở khu chế

xuất Linh Trung I (quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), một cuộc biểu t́nh của 1300

công nhân đă diễn ra tại công ty Danu Vina (công ty 100% vốn Hàn Quốc) v́ chính sách

lương bổng bất hợp lư của công ty này. Từ tháng 7 năm 2007, công ty tăng lương thêm

50.000 đồng (khoảng 3 USD) cho công nhân làm từ 1 đến 5 năm và 70000 đồng (gần 4

USD) cho công nhân làm từ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên, việc tăng lương chỉ áp dụng cho

những công nhân kư hợp đồng từ tháng 7 trở về trước của các năm, c̣n những người kư hợp

đồng từ tháng 8 trở đi th́ không giải quyết. Ngoài ra, công ty trả tiền chuyên cần ở mức

25.000 đồng/tháng là quá thấp, bữa ăn giữa ca trị giá 4.000 đồng không bảo đảm chất lượng;

công ty không có nhà để xe, không có chỗ để giày dép dẫn đến xe hư, mất dép; pḥng vệ

sinh thiếu nước... ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của người lao động.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2007, được

tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như Hà Nội,

thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, B́nh Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc,

Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty FDI than phiền về lương

thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá nhiều (có doanh nghiệp làm thêm

đến 500 - 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài

nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND (50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một

tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc

sống. Để nâng cao thu nhập hàng tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm

thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da8. Ở trong nhiều xí

nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều người làm 16h

một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm sau phải đi làm tiếp nếu

không muốn bị đuổi việc!9. Đây là một hành vi không thể tha thứ được!
Trong ṿng ba năm kể từ 2007 trờ về trước, hơn 20% công nhân ở các công ty FDI

không được tăng lương, mặc dù theo luật pháp, cứ ba năm công nhân phải được tăng lương

một lần. Kể cả khi được tăng, mức tăng cũng ít hơn quy định. Rất nhiều xí nghiệp cũng

không thực hiện những điều ghi trong hợp đồng với công nhân và các hợp đồng lao động

tập thể, như mức tăng lương, giờ làm việc và các trợ cấp xă hội, bao gồm nghỉ phép định kỳ,

đau ốm, t́nh trạng mang thai và đền bù cho tai nạn lao động. Cho đến nay, chỉ 50% công ty


8 Laodong Newspaper No 76, www.laodong.com.vn 04/04/2007

9 http://www.vnn.vn/xahoi/laodong/2005/11/512631/

9

FDI kư hợp đồng lao động tập thể để đảm bảo lợi ích cho người lao động, điều dẫn đến bất

đồng giữa người lao động và chủ.
Để giải quyết t́nh trạng này, Viện đă tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và đưa ra

những h́nh phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm cả thiếu cung

cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước sửa đổi Luật Lao động

và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lư cho đ́nh công, bảo vệ được quyền lợi

của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp10. Đây là một vấn đề cần được sớm giải quyết để

bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt

Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước ngoài.
Có lẽ do vấn đề quan hệ chủ - thợ đă được đề cập nhiều trên các phương tiện thông

tin đại chúng, nên trong cuộc điều tra của chúng tôi, kết quả trả lời khá khả quan. Luật pháp

Việt Nam quy định chủ doanh nghiệp không có quyền từ chối nhận lao động nữ với lư do

đang nuôi con nhỏ, lao động nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi được quyền đi làm muộn 1h và

không bị buộc phải làm thêm giờ. Nhưng trên thực tế, quy định này chỉ được tuân thủ tại

các cơ quan nhà nước và ít được để ư tại các doanh nghiệp tư nhân hay FDI. Khi được yêu

cầu phát biểu quan điểm về việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang

nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, 25% số

người được hỏi cho là vi phạm luật pháp, 66,67% cho là vi phạm đạo đức kinh doanh và chỉ

có 5 người (chiếm 8.33%) cho là không vi phạm, v́ mọi người lao động có nghĩa vụ làm

việc như nhau. Như vậy, chúng ta có thể cho là mặc dù c̣n những hạn chế về nhận thức

nhưng đại đa số người tham gia điều tra đă có ư thức tương đối rơ ràng về vấn đề này!


2.5. Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư

(The moral rights and duties between a company and its shareholders)
Đây là vấn đề c̣n rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt Nam c̣n

rất non trẻ (chưa đầy 10 tuổi) nên những quy định về tính trung thực trong báo cáo tài chính,

công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn c̣n chưa chặt chẽ. V́ vậy,

thời gian qua đă xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những thông tin chưa chính

xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư.
Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery Company

(Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6 tháng đầu năm

2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng kư lên sàn đầu tiên ở Việt Nam và là công ty

niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. V́ vậy, các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào lợi

nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, thời

gian này công ty đă đồng loạt triển khai các dự án đầu tư mới nhằm mở rộng sản xuất - kinh

doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới (bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây

dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Ḥa 2… nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá

nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, t́nh h́nh nhân sự trong bộ phận Tài chinh - Kế toán có

10 Báo Lao ng s 76, www.laodong.com.vn 04/04/2007

10

nhiều biến động đă làm gia tăng thêm các khó khăn cho công ty. Trước t́nh h́nh đó, công ty

cần thu hút thêm các nhà đầu tư để gia tăng vốn nên đă đưa ra một báo cáo tài chính không

chính xác. Khi vụ việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đă lỗ 10,086 tỷ đồng

(tương đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công

bố11. Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng

thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với h́nh phạt v́ vi phạm luật quản lư chứng khoán của Ủy

ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào t́nh trạng gần như phá sản.


Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương

tự vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập đầu năm 2007,

nhưng đă được các nhà đầu tư hết sức quan tâm v́ Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của Thiên

Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng kư kinh doanh,

Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với tư

cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. V́ vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ phiếu của

Thiên Việt đă được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc Thiên Việt đưa

ra thông tin là họ đă kư hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một tập đ̣an tài chính

hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt c̣n đưa ra bản thỏa thuận hợp tác với chữ kư của

Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện thông tin đại chúng, thế nên giá

cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ

vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng đă cung cấp thông tin rằng Goldman

Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt:
Edward Naylor, Giám đốc bộ phận truyền thông của Goldman Sachs ở châu Á,

trong email gửi cơ quan thông tấn Việt Nam, đă nhấn mạnh rằng Goldman Sachs không

liên kết với công ty chứng khóan Thiên Việt.”
Gần đây chúng tôi đă có một cuộc gặp mặt không chính thức mang tính chất thăm

ḍ như chúng tôi đă thực hiện với các công ty chứng khoán khác,” bức thư viết. “Cho đến

nay, đại diện của Thiên Việt và Goldman Sachs mới chỉ gặp mặt trong các buổi gặp “thăm

ḍ” như Goldman Sachs với các công ty chứng khoán khác ở Việt Nam”.
Khi được hỏi về bản thỏa thuận hợp tác với chữ kư của cả hai bên mà Thiên

Việt đă đưa ra cho các phương tiện thông tin đại chúng, ông Naylor nói rằng

Goldman Sachs đôi khi kư những thỏa thuận tương tự với những công ty chứng khoán

tư nhân khi tập đoàn đang t́m kiếm các cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, để Goldman

Sachs có thể thâm nhập được vào thị trường Việt Nam. Thỏa thuận đó không thể

được coi là bằng chứng về một sự liên kết của 2 công ty”12
Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề kư HĐ làm việc cho

Thiên Việt. V́ vậy, Thiên Việt đă bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch chứng khóan thành

phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước v́ đưa ra thông tin không rơ

11 2002 Vietnam Investment Review Ltd

12 http://english.vietnamnet.vn/biz/2007/03/670242/

11

ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây chính là các nhà đầu tư, những



người đă bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra.
Nhưng những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào v́ luật pháp

cũng như ư thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này c̣n chưa đầy đủ. Trong

kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp t́nh huống này,

những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng răi cho các cổ đông để

kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn. Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi

ro nhưng cách này giúp công ty giữ được ḷng tin của các nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ

bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Nhưng trong cuộc điều tra của chúng tôi, để trả lời câu hỏi

Khi một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị suy



giảm, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị mất giá nghiêm

trọng, th́ công ty nên làm ǵ?”, chỉ có 42% số người được hỏi chọn cách thông báo rộng răi

cho các nhà đầu tư, 50% chọn cách “Ḱm giữ thông tin một thời gian để t́m cách sửa chữa



dây chuyền sản xuất” và 8% chọn cách “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc!” Mặc

dù kết quả này là khá khả quan,v́ đến 92% số người được hỏi không có ư định che giấu

thông tin, ít ra là trong một thời gian nhưng đây cũng là một thiếu sót trong nhận thức của

doanh nghiệp Việt Nam.


Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 409.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương