NIỀm vui yêu thưƠng (amoris laetitia)



trang1/17
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1 Mb.
#8621
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng


NIỀM VUI YÊU THƯƠNG

(AMORIS LAETITIA)
về tình yêu trong Gia đình
của Đức Thánh Cha PHANXICÔ
gửi các giám mục, linh mục, phó tế,

những người thánh hiến,

các đôi vợ chồng Kitô hữu

và tất cả các tín hữu


*************************


Lm. Lê Công Đứcdịch

1. Niềm Vui Yêu Thương được các gia đình kinh nghiệm cũng là niềm vui của Giáo Hội. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận, giữa bao dấu hiệu khủng hoảng trong cơ chế hôn nhân, “khát vọng kết hôn và xây dựng gia đình vẫn sống động, nhất là nơi người trẻ, và đây là một nguồn cảm hứng cho Giáo Hội”.1 Như sự đáp ứng khát vọng đó, “lời loan báo của Kitô giáo về gia đình quả thực là tin vui”.2
2. Tiến trình Thượng Hội Đồng đã cho phép có một sự khảo sát về hoàn cảnh các gia đình trong thế giới hôm nay, và nhờ đó có một cái nhìn rộng hơn và một ý thức đổi mới về tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình. Tính phức tạp của các vấn đề nổi lên cho thấy cần phải tiếp tục thảo luận công khai về một số vấn nạn giáo thuyết, luân lý, linh đạo và mục vụ. Suy nghĩ của các mục tử và các nhà thần học, nếu trung thành với Giáo Hội, nếu chân thật, thực tiễn và sáng tạo, sẽ giúp chúng ta đạt được sự sáng tỏ nhiều hơn. Những tranh luận diễn ra trên các phương tiện truyền thông, trong một số sách báo, và ngay giữa các thừa tác viên của Giáo Hội, từ sự hăm hở quá đáng trông đợi một sự thay đổi hoàn toàn mà không suy ngẫm hay đặt nền cho đủ kỹ, cho tới thái độ muốn giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các qui tắc chung chung hay bằng cách rút ra những kết luận không thích đáng từ những quan điểm thần học cá biệt.
3. Vì “thời gian quan trọng hơn không gian”, nên tôi muốn nêu rõ rằng không phải mọi bàn cãi về các vấn đề giáo thuyết, luân lý hay mục vụ đều cần phải được giải quyết bởi những can thiệp của huấn quyền. Sự thống nhất về giáo huấn và thực hành hẳn nhiên là cần thiết trong Giáo Hội, nhưng điều đó không loại trừ những cách thức khác nhau để diễn dịch một số khía cạnh của giáo huấn hay để rút ra một số hệ quả từ giáo huấn ấy. Điều này sẽ luôn đúng, bởi Chúa Thánh Thần luôn dẫn dắt chúng ta đến sự thật trọn vẹn (x. Ga 16,13), cho tới khi Ngài đưa chúng ta đi vào hoàn toàn trong mầu nhiệm Chúa Kitô và cho phép ta nhìn thấy mọi sự như chính Ngài nhìn thấy. Hơn nữa, mỗi quốc gia hay tôn giáo có thể tìm ra những giải pháp tốt hơn, phù hợp với nền văn hóa của mình, và nhạy bén hơn với các truyền thống và các nhu cầu địa phương. Vì “quả thực các nền văn hóa rất đa dạng và mọi nguyên tắc tổng quát … đều cần phải được hội nhập văn hóa, nếu muốn các nguyên tắc ấy được tôn trọng và áp dụng”.3
4. Tôi cũng phải nói rằng tiến trình Thượng Hội Đồng tỏ ra vừa rất ấn tượng vừa đầy khai sáng. Tôi biết ơn về nhiều sự đóng góp đã giúp tôi trân trọng đầy đủ hơn đối với những vấn đề mà các gia đình trên khắp thế giới phải đương đầu. Các tham luận khác nhau của các Nghị Phụ, mà tôi đã chăm chú lắng nghe, quả thực làm nên một viên ngọc đa diện phản ảnh nhiều mối quan tâm chính đáng và nhiều vấn nạn chân thực. Vì thế, thiết tưởng là thích đáng việc soạn thảo một Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng để thâu nạp những đóng góp của hai Thượng Hội Đồng về gia đình vừa qua, với sự bổ sung những lưu ý khác nữa, để hỗ trợ cho việc suy tư, đối thoại và thực hành mục vụ, đồng thời để trợ giúp và khích lệ các gia đình trong những sự dấn thân và những thách đố hằng ngày của họ.
5. Tông Huấn này đặc biệt hợp thời trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trước hết, bởi vì đây là một lời mời gọi các gia đình Kitô hữu biết trân trọng các quà tặng hôn nhân và gia đình, và biết kiên trung trong một tình yêu được củng cố nhờ các nhân đức quảng đại, dấn thân, trung thành và kiên nhẫn. Thứ hai, vì Tông Huấn muốn khích lệ mọi người trở nên một dấu hiệu của lòng thương xót và sự gần gũi, ở bất cứ đâu mà đời sống gia đình còn bất toàn hay còn thiếu vắng sự bình an và niềm vui.
6. Tôi sẽ bắt đầu với một chương nhập đề được cảm hứng từ Thánh Kinh, để lấy qui chuẩn đúng đắn. Rồi tôi sẽ khảo sát hoàn cảnh thực tế của các gia đình, nhằm bám chặt vào thực tại. Tiếp theo, tôi sẽ nhắc lại một số khía cạnh thiết yếu của giáo huấn Giáo Hội về hôn nhân và gia đình, nhằm sửa soạn cho hai chương nòng cốt nói về tình yêu. Sau đó tôi sẽ nhấn mạnh một số cách tiếp cận mục vụ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc kiến tạo những gia đình vững mạnh và đầy hoa trái, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, với một chương trọn vẹn dành cho việc nuôi dạy con cái. Cuối cùng, tôi sẽ đưa ra lời mời gọi thực thi lòng thương xót và phân định mục vụ đối với những hoàn cảnh bất cập chiếu theo những gì Chúa đòi hỏi chúng ta, và sẽ kết thúc bằng một đề cập vắn tắt về linh đạo gia đình.
7. Dựa vào những hoa trái phong phú của tiến trình hai năm Thượng Hội Đồng, Tông Huấn này sẽ đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, trong những cách khác nhau. Điều này giải thích độ dài không tránh được của nó. Do đó, tôi không khích lệ việc đọc bản văn cách vội vàng. Đối với chính các gia đình cũng như những ai can dự vào việc tông đồ gia đình, ích lợi lớn nhất sẽ nhận được nếu đọc mỗi phần một cách nhẫn nại và kỹ lưỡng, hay nếu chú ý đến những phần nói về các nhu cầu chuyên biệt của mình. Chẳng hạn, có thể các đôi vợ chồng sẽ quan tâm nhiều hơn đến các Chương IV và V, các tác viên mục vụ sẽ quan tâm nhiều đến Chương VI, trong khi mọi người có thể cảm thấy được thách đố bởi Chương VIII. Tôi hy vọng rằng khi đọc bản văn này, mọi người sẽ cảm thấy được mời gọi yêu quí đời sống gia đình, vì “gia đình không phải là một vấn đề; tiên vàn nó là một cơ hội”.4

CHƯƠNG MỘT:

TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA


8. Thánh Kinh chứa đầy những gia đình, những cuộc sinh hạ, những câu chuyện tình, và những khủng hoảng của các gia đình. Quả đúng như vậy, ngay từ trang đầu Sách Thánh, với sự xuất hiện của gia đình Ađam và Eva với tất cả gánh nặng và bạo lực của nó, cùng với sự kiên vững của nó (x. St 4), cho tới trang cuối cùng của Thánh Kinh, trong đó chúng ta thấy lễ cưới của Tân Nương và Con Chiên (Kh 21,2.9). Đức Giêsu mô tả hai ngôi nhà, một xây trên đá và một trên cát (x. Mt 7,24-27), tượng trưng cho mọi tình huống gia đình hình thành bởi cách mà mỗi thành viên sử dụng tự do của mình, vì như thi sĩ nọ đã nói: “Mỗi gia đình là một chân đèn”.5 Giờ đây chúng ta hãy bước vào một trong những ngôi nhà ấy, theo sự dẫn dắt của tác giả Thánh Vịnh qua một bài ca mà ngày nay vẫn vang lên trong phụng vụ lễ cưới của cả Do Thái và Kitô giáo:
Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,

bước đi trong đường lối của Ngài.

Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng;

bạn sẽ hạnh phúc và may mắn.

Hiền thê bạn trong nhà sẽ như cây nho đầy trái;

con cái bạn như những chồi ô-liu xúm quanh bàn ăn của bạn.

Đó là phúc lành dành cho người kính sợ Chúa.

Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho bạn!

Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem

suốt mọi ngày trong đời bạn!

Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!

Nguyện chúc Ít-ra-en được an bình!” (Tv 128,1-6).
NGƯƠI VÀ VỢ NGƯƠI
9. Chúng ta hãy bước qua ngưỡng cửa của mái gia đình yên hàn này, với cả nhà ngồi quanh bàn tiệc. Ở vị trí trung tâm ta thấy người cha và người mẹ, một đôi vợ chồng với câu chuyện tình riêng của họ. Họ thực hiện kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa được Đức Kitô nhắc lại rõ ràng: “Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người có nam có nữ’?” (Mt 19,4). Chúng ta nghe thấy một âm vọng của lệnh truyền được ghi trong sách Sáng Thế: “Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,24).
10. Các chương đầu tiên rất hùng tráng của sách Sáng Thế trình bày đôi bạn con người trong thực tại sâu xa nhất. Những trang Thánh Kinh đầu tiên cung ứng nhiều tuyên bố rất rõ ràng. Trước hết, đó là tuyên bố mà Đức Giêsu đã nhắc lại: “Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài sáng tạo họ có nam có nữ” (1,27). Thật cảm kích biết bao khi “hình ảnh Thiên Chúa” ở đây qui chiếu đến đôi vợ chồng, “nam và nữ”. Phải chăng điều này có nghĩa rằng giới tính là một đặc tính của chính Thiên Chúa, hoặc có nghĩa rằng Thiên Chúa có một bạn đường thần linh thuộc phái nữ, như một số tôn giáo cổ chủ trương? Câu trả lời hẳn nhiên là không. Chúng ta biết rõ rằng Thánh Kinh bác bỏ những niềm tin có tính thờ ngẫu tượng như thế, vốn được gặp thấy nơi những người Canaan ở Đất Thánh. Sự siêu việt của Thiên Chúa được bảo toàn, nhưng vì Thiên Chúa cũng là Đấng Tạo hóa, nên hoa trái của đôi vợ chồng con người là một “hình ảnh” hữu hiệu và sống động, một dấu hiệu hữu hình cho thấy hành động sáng tạo của Ngài.
11. Không phải là một ngẫu tượng kiểu như những ngẫu tượng bằng đá hay bằng vàng mà Thập Giới ngăn cấm, đôi vợ chồng yêu thương và sinh ra sự sống là một hình tượng sống động đích thực, có khả năng mạc khải Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ. Vì vậy, tình yêu đầy hoa trái trở thành một biểu tượng cho đời sống nội tại của Thiên Chúa (x. St 1,28; 9,7; 17,2-5.16; 28,3; 35,11; 48,3-4). Đó là lý do tại sao trình thuật Sáng Thế này, theo “truyền thống tư tế”, được đan kết bằng nhiều trình thuật phả hệ khác nhau (x. 4,17-22.25-26; 5; 10; 11,10-32; 25,1-4.12-17.19-26; 36). Khả năng sinh ra sự sống của các đôi vợ chồng nhân loại là nẻo đường theo đó lịch sử cứu độ diễn tiến. Nhìn theo cách này, mối tương quan đầy hoa trái của đôi vợ chồng trở thành một hình ảnh giúp nhận hiểu và mô tả mầu nhiệm của chính Thiên Chúa, vì trong cái nhìn của Kitô giáo về Ba Ngôi, Thiên Chúa được chiêm ngắm như là Cha, Con và Thánh Thần yêu thương. Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông yêu thương, và gia đình là phản ảnh sống động của mối hiệp thông ấy. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã soi sáng cho điều này khi nói: “Trong mầu nhiệm sâu thẳm nhất của Ngài, Thiên Chúa của chúng ta không cô độc, nhưng là một gia đình, vì Ngài có trong chính Ngài cương vị cha, phận làm con, và yếu tính của gia đình, tức tình yêu. Tình yêu ấy, trong gia đình Thiên Chúa, chính là Thánh Thần”.6 Gia đình, vì thế, không tách biệt khỏi chính hiện hữu của Thiên Chúa.7 Chiều kích Ba Ngôi này được diễn tả trong thần học của Phaolô, thánh nhân đã nối kết đôi vợ chồng với “mầu nhiệm” kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,21-33).
12. Khi nói về hôn nhân, Đức Giêsu nhắc chúng ta một trang khác nữa của sách Sáng Thế, thuộc chương thứ hai, trong đó bản văn vẽ một chân dung chi tiết tuyệt đẹp của đôi vợ chồng. Trước hết, chúng ta thấy người đàn ông đang khắc khoải tìm “một trợ tá xứng hợp” (câu 18 và 20), có thể xoa dịu nỗi cô đơn mà người đàn ông đang cảm nghiệm ở giữa các loài vật và thế giới xung quanh mình. Bản gốc tiếng Híp-ri gợi cho thấy một cuộc gặp gỡ trực tiếp, mặt đối mặt, mắt nhìn vào mắt, bằng một thứ đối thoại trong thinh lặng, vì ở đâu có tình yêu thì sự thinh lặng luôn luôn hùng hồn hơn lời nói. Đó là cuộc gặp gỡ với một khuôn mặt, một “chủ thể” phản chiếu tình yêu của chính Thiên Chúa và là “gia tài quí nhất, một trợ lực xứng hợp, và một cột trụ để tựa nương” của người đàn ông, theo ngôn ngữ khôn ngoan của Thánh Kinh (Hc 36,24). Thêm nữa, như người phụ nữ trong Bài Ca của Sa-lô-môn sẽ ca lên lời tuyên xưng tuyệt diễm về tình yêu và về sự tự hiến cho nhau: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi, và tôi trọn vẹn thuộc về chàng… Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn” (2,16; 6,3).
13.Cuộc gặp gỡ này, giúp xoa dịu nỗi cô đơn của người đàn ông, làm phát sinh sự sống mới và gia đình. Thật ý nghĩa, Ađam, cũng là người đàn ông của mọi nơi mọi thời, cùng với vợ mình khởi lập một gia đình mới. Đức Giêsu nói về điều này khi dẫn lại bản văn sách Sáng Thế: “Người ta sẽ gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,5; x. St 2,24). Từ ngữ “gắn bó” này, trong nguyên ngữ Híp-ri, nói về một sự hòa điệu sâu xa, một sự gần gũi cả thể lý lẫn nội tâm, đến mức chính từ ngữ ấy được dùng để mô tả sự kết hợp của chúng ta với Thiên Chúa: “Hồn con bám chặt vào Chúa” (Tv 63,8). Sự kết hợp vợ chồng, vì thế, gợi lên không chỉ chiều kích thân xác và tính dục, mà cả việc tự nguyện tự hiến trong tình yêu. Kết quả của sự kết hợp này, đó là “cả hai trở thành một xương một thịt”, cả về thể lý lẫn theo nghĩa kết hợp trong trái tim và đời sống, và cuối cùng là nơi một người con, với sự chia sẻ “cốt nhục” của cả cha lẫn mẹ - không chỉ về di truyền học mà còn về mặt tâm linh nữa.
CON CÁI BẠN NHƯ NHỮNG CHỒI Ô-LIU
14. Một lần nữa, chúng ta hãy quay lại với tác giả Thánh Vịnh. Trong mái nhà ấy, nơi mà chồng và vợ đang ngồi tại bàn ăn, con cái xuất hiện bên cạnh họ “như những chồi ô-liu” (Tv 128,3), nghĩa là, với tràn đầy sinh lực. Nếu cha mẹ, theo nghĩa nào đó, là nền móng của ngôi nhà, thì con cái được ví như những “viên đá sống động” của gia đình (x. 1Pr 2,5). Thật ý nghĩa, trong Cựu Ước từ ngữ thường xuyên xuất hiện nhất sau tên gọi Thiên Chúa (YHWH, “Đức Chúa”), đó là từ “con” (ben, “con trai”), vốn có liên hệ với động từ “xây dựng” (banah). Như vậy, khi nói về quà tặng con cái, Thánh Vịnh 128 sử dụng hình ảnh rút từ việc xây dựng một ngôi nhà và đời sống xã hội tại các thành phố: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công… Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thuởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ, tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay. Hạnh phúc thay người nào đeo ống đầy loại tên như thế! Họ sẽ không nhục nhã khi phải đến cửa công tranh tụng với địch thù” (Tv 127,1.3-5). Những hình ảnh này phản ánh nền văn hóa của một xã hội cổ xưa, tuy nhiên sự hiện diện của con cái là một dấu hiệu thường tồn của gia đình xuyên suốt lịch sử cứu độ, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
15. Ở đây chúng ta cũng thấy một khía cạnh khác của gia đình. Chúng ta biết rằng Tân Ước nhắc đến “các Hội Thánh họp tại nhà” (x. 1Cr 16,19; Rm 16,5; Cl 4,15; Plm 2). Một không gian sống động của gia đình có thể chuyển thành một Hội Thánh tại gia, một khung cảnh cho Bí tích Thánh Thể, tức sự hiện diện của Đức Kitô tại bàn ăn. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh trong sách Khải Huyền, trong đó Chúa nói: “Này, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Ở đây chúng ta thấy một gia đình đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa, của kinh nguyện chung và của mọi ơn phúc. Đây là ý nghĩa đoạn kết Thánh Vịnh 128 được trích dẫn ở trên: “Đó là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài. Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho bạn!” (Tv 128,4-5).
16. Thánh Kinh cũng trình bày gia đình như là nơi con cái được nuôi dưỡng lớn lên trong đức tin. Điều này thật rõ trong mô tả về cử hành lễ Vượt Qua (x. Xh 12,26-27; Đnl 6,20-25) và về sau thấy xuất hiện rõ rệt trong haggadah Do Thái, tức mẩu đối thoại gắn liền với nghi thức bữa ăn Vượt Qua. Một trong các Thánh Vịnh nói về lời công bố đức tin trong các gia đình: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm. Ngài đã ban huấn lệnh cho nhà Gia-cóp, đặt ra lề luật cho Ít-ra-en, dạy tổ tiên chúng tôi truyền lại cho con cháu các cụ được tường, hầu kẻ hậu sinh trong thế hệ tương lai cũng biết, rồi mai ngày đến lượt chúng kể cho con cháu mình” (Tv 78,3-6). Như vậy, gia đình là nơi mà cha mẹ trở thành những thầy dạy đức tin đầu tiên cho con cái. Họ học “nghề” này, và truyền lại cho đời sau từ người này sang người khác: “Khi đến lúc con ngươi hỏi… Ngươi sẽ trả lời…” (Xh 13,14). Nhờ đó các thế hệ nối tiếp nhau có thể lên lời ca ngợi Chúa: “Ai là nam thanh, ai là nữ tú, khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng” (Tv 148,12).
17. Cha mẹ có trách nhiệm lớn lao đối với công cuộc giáo dục này, như các bậc hiền đức trong Thánh Kinh thường nhắc chúng ta (x. Cn 3,11-12; 6,20-22; 13,1; 22,15; 23,13-14; 29,17). Về phần mình, con cái được mời gọi đón nhận và thực hành điều răn: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Xh 20,12). Ở đây động từ “thờ kính” có liên quan tới việc chu toàn các nghĩa vụ gia đình và xã hội; không được phép coi thường những nghĩa vụ này bằng cách viện dẫn các lý do tôn giáo (x. Mc 7,11-13). “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4).
18. Tin Mừng tiếp tục nhắc chúng ta rằng con cái không phải là tài sản của một gia đình, nhưng chúng có cuộc đời riêng để sống. Đức Giêsu là gương mẫu vâng phục cha mẹ trần thế của Người, Người đặt mình dưới sự hữu trách của cha mẹ (x. Lc 2,51), nhưng Người cũng cho thấy rằng các quyết định về cuộc đời của con cái và về ơn gọi Kitô hữu của chúng có thể đòi hỏi một sự dứt khoát nào đó vì Nước Thiên Chúa (x. Mt 10,34-37; Lc 9,59-62). Chính Đức Giêsu, năm mười hai tuổi, đã nói với Đức Maria và Thánh Giuse rằng Người có một sứ mạng lớn hơn phải chu toàn ở bên ngoài phạm vi gia đình trần thế của Người (x. Lc 2,48-50). Theo hướng này, Người cho thấy cần có những mối ràng buộc khác sâu xa hơn, thậm chí ngay trong gia đình: “Mẹ và anh em Ta là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Cũng vậy, trong mối quan tâm đối với trẻ em – là thành phần mà các xã hội Cận Đông cổ xưa coi là những kẻ lệ thuộc, không có quyền riêng nào, thậm chí chúng được coi như tài sản của gia đình – Đức Giêsu đã đi xa đến độ giới thiệu chúng như những thầy dạy, bởi đặc tính đơn sơ tin tưởng và hồn nhiên của chúng đối với người khác. “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18,3-4).
MỘT NẺO ĐƯỜNG ĐAU KHỔ VÀ ĐẪM MÁU
19. Bức tranh đẹp tuyệt được trình bày trong Thánh Vịnh 128 không hề loại trừ một sự thật cay đắng gặp thấy trong khắp các trang Thánh Kinh, đó là, sự hiện diện của đau khổ, sự dữ và bạo lực có sức phá vỡ các gia đình, phá vỡ mối hiệp thông sự sống và tình yêu. Thật ý nghĩa sự kiện rằng giáo huấn của Đức Kitô về hôn nhân (x. Mt 19,3-9) được đưa vào trong bối cảnh một cuộc tranh luận về ly dị. Lời Chúa không ngừng chứng thực cái chiều kích u ám vốn đã có mặt ngay từ đầu, lúc mà – do tội lỗi – mối tương quan yêu thương và trong sáng giữa người nam và người nữ biến thành sự thống trị: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16).
20. Sợi chỉ đau khổ và đẫm máu này được thấy xuyên suốt qua rất nhiều trang Thánh Kinh, bắt đầu với việc Cain sát hại em mình là Aben. Chúng ta đọc thấy những xung đột giữa những người con và những người vợ của các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp, những bi kịch và bạo lực đánh dấu trên gia đình của Đavít, những vấn đề gia đình được phản ảnh trong câu chuyện Tôbia, và lời phàn nàn cay đắng của Gióp: “Anh em tôi, Người đẩy xa tôi… người quen biết muốn làm mặt lạ...Thân bằng đã biến sạch,quyến thuộc đã quên tôi.Hơi thở tôi làm vợ tôi lợm giọng,và tôi trở thành ghê tởm trước con cái của chínhlòng dạ mẹ tôi” (G 19,13-14.17).
21. Chính Đức Giêsu đã sinh ra trong một gia đình đơn nghèo, sớm phải trốn chạy ra nước ngoài. Người đã ghé thăm nhà Phêrô, có nhạc mẫu của ông đang đau ốm (x. Mc 1,30-31) và Người chạnh lòng thương khi nghe về những cái chết trong gia đình của Giairô và Ladarô (x. Mc 5,22-24.35-43; Ga 11,1-44). Người nghe tiếng khóc than vô vọng của bà góa ở Nain trước cái chết của con trai mình (x. Lc 7,11-15), và Người động lòng trước lời khẩn cầu của người cha có đứa con bị kinh phong tại một làng kia (x. Mc 9,17-27). Người đến nhà của những người thu thuế như Matthêu và Giakêu (x. Mt 9,9-13; Lc 19,1-10), và nói chuyện với những người tội lỗi như người phụ nữ trong nhà của ông Biệt phái Simon (x. Lc 7,36-50). Đức Giêsu biết những lo âu và căng thẳng mà các gia đình phải chịu đựng, và Người đan kết chúng vào các dụ ngôn của Người: con cái bỏ nhà đi hoang (x. Lc 15,11-32), hay tỏ ra ương bướng (Mt 21,28-31) hoặc làm mồi cho bạo lực (Mc 12,1-9). Người cũng nhạy cảm trước nỗi lúng túng do thiếu rượu tại một tiệc cưới (Ga 2,1-10), do các khách mời không đến dự tiệc (Mt 22,1-10), và nỗi lo của một gia đình nghèo lỡ đánh mất một đồng xu (Lc 15,8-10).
22. Trong cái nhìn lướt qua này, chúng ta có thể thấy rằng Lời Chúa không phải là một mớ ý tưởng trừu tượng, nhưng đúng hơn đó là một nguồn an ủi và đồng hành cho các gia đình đang kinh nghiệm những khó khăn và đau khổ. Vì Lời Chúa cho thấy mục tiêu cuộc hành trình của các gia đình, khi Thiên Chúa “lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4).
CÔNG KHÓ TAY BẠN LÀM RA
23. Ở đầu Thánh Vịnh 128, người cha xuất hiện như một người lao công, dùng lao động của đôi tay để nâng đỡ cho gia đình được êm ấm: “Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng; bạn sẽ hạnh phúc và may mắn” (Tv 128,2). Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, thật rõ rằng lao động là một phần thiết yếu của phẩm giá con người; chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào trong vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Con người được trình bày như một người lao công canh tác đất đai, khai thác những sức mạnh của thiên nhiên và sản xuất ra “lương thực do lao động nhọc nhằn” (Tv 127,2), cùng với việc phát huy những ơn huệ và những tài năng của mình.
24. Lao động cũng giúp cho xã hội có thể phát triển, và cung ứng cho sự sống, sự ổn định cũng như sự sinh hoa kết quả của gia đình: “Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem suốt mọi ngày trong đời bạn! Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!” (Tv 128,5-6). Sách Châm Ngôn cũng nói về lao động của những người mẹ trong gia đình; công việc hằng ngày của họ được mô tả chi tiết, nhận được sự khen ngợi của chồng và con cái họ (x. 31,10-31). Tông đồ Phaolô tự hào vì đã không ăn bám người khác, vì ngài đã làm việc bằng đôi tay mình và bảo đảm cho việc sinh sống của chính mình (x. Cv 18,3; 1Cr 4,12; 9,12). Phaolô rất xác tín về sự cần thiết phải làm việc đến nỗi ngài đưa ra một qui định nghiêm khắc cho các cộng đoàn của ngài: “Ai không làm việc, thì đừng ăn” (2Tx 3,10; x. 1Tx 4,11).
25. Mặt khác, chúng ta có thể hiểu nỗi khổ do thất nghiệp và do thiếu công việc làm ổn định, như được phản ảnh trong sách Rút, trong dụ ngôn của Đức Giêsu về những người thợ đành phải đứng ì ra đó ngoài chợ (Mt 20,1-16), và kinh nghiệm của chính Đức Giêsu khi gặp những người nghèo khổ và đói khát. Đáng buồn là những thực tế này vẫn còn đó tại nhiều quốc gia ngày nay, những nơi mà tình trạng thiếu cơ hội làm việc đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự yên ổn của đời sống gia đình.
26. Chúng ta cũng không thể không nhận thấy sự suy thoái xã hội do tội lỗi gây ra, chẳng hạn, khi con người áp chế thiên nhiên, phá hại thiên nhiên một cách ích kỷ và thậm chí một cách tàn nhẫn. Điều này dẫn tới tình trạng sa mạc hóa trái đất (x. St 3,17-19) cùng những sự mất quân bình kinh tế và xã hội từng bị tố cáo bởi các ngôn sứ, bắt đầu với Êlia (x. 1V 21) và lên đến đỉnh điểm nơi những lời của Đức Giêsu chống lại tình trạng bất công (x. Lc 12,13; 16,1-31).
SỰ DỊU DÀNG CỦA VÒNG TAY ÔM
27. Đức Kitô đề ra dấu hiệu để nhận diện các môn đệ Người, đó là luật yêu thương và sự trao hiến chính mình cho người khác (x. Mt 22,39; Ga 13,34). Người làm thế khi tuyên bố một nguyên tắc mà các bậc cha mẹ thường thể hiện trong đời sống của mình: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Tình yêu cũng sinh hoa trái nơi lòng thương xót và sự thứ tha. Một cách đặc biệt, chúng ta thấy điều này trong câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình; ở trước Đền Thờ, chị bị bao vây bởi những người tố cáo chị, nhưng sau đó, khi còn lại một mình với Đức Giêsu, chị gặp thấy không phải sự lên án mà là lời nhắc nhở chị phải sống xứng đáng hơn (x. Ga 8,1-11).


Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương