NHÀ THƠ ANH THƠ
Tiểu sử:
Tên thật: Vương Kiều Ân
Sinh năm: 1921
Nơi sinh: Ninh Giang- Hải Dương
Bút danh: Anh Thơ, Tuyết Anh, Hồng Minh
Thể loại: Thơ, truyện, hồi ký
Các tác phẩm:
Bức tranh quê (1941) Chi tiết
Xưa (1942)
Răng đen (1944)
Kể chuyện Vũ Lăng (1957)
Theo cánh chim câu (1960)
Đảo ngọc (1964)
Hoa dưới trăng (1967)
Mùa xuân màu xanh (1974) Chi tiết
Tiếng chim tu hú (1995)
Giải thưởng văn chương:
Tự lực văn đoàn (1939)
Giới thiệu một tác phẩm:
Bến đò ngày mưa
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng so ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
Nơi xuất bản: Trích Bức tranh quê (1941) - Nhà xuất bản Hội nhà văn (2001)
-------
NHÀ THƠ BẢO ĐỊNH GIANG
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Thanh Danh
Sinh năm: 1919
Mất năm: 2005
Bút danh: Bảo Định Giang, Nguyễn Thanh, Thu Thuỷ, Văn Kỹ Thanh, Nguyễn Tịnh Hà
Nơi sinh: Cái Bè - Tiền Giang
Thể loại: Thơ, kịch, nghiên cứu phê bình
Các tác phẩm:
Đường giải phóng (1977) >> Chi tiết
Đêm huyền diệu (1985)
Sen đồng (1990)
Trong mỗi trái tim (1993)
Thuyền chở đạo (1994)
Ca dao Bảo Định Giang (1990)
Hả dạ (1949)
Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga (1990)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Mây trắng bến Nhà Rồng
Thắm một sắc cờ hoa phượng nở
Xanh trời cao vút những thân sao
Nắng vàng trải mỏng dài theo phố
Tường ánh màu vôi mới trắng phau.
Thành phố tên Người đẹp tháng Năm
Đường ken xe đạp buổi đi làm
Rợp tàn vú sữa sân nhà trẻ
Các cháu vui đùa dưới bóng râm.
Chóng lớn “Cháu ngoan của Bác Hồ!”
Tình thương dồn cả tuổi măng tơ
Một sương, hai nắng lòng cô bác
Chăm chút mầm non hẹn tốt mùa
Hạt giống người gieo nay chín rộ
Hai mùa kháng chiến khép thành thơ
Mồ hôi, máu đổ không chùn bước
Triệu đoá hoa xuân nở dưới cờ!
Được thở tự do dẫu một ngày
Tình người ấm lại chất men say
Trăm năm thoát khỏi đời nô lệ
Lưỡi vẫn còn tê vị đắng cay!
Muôn dặm bồng bềnh thủa Bác đi
Bồi tàu, rửa ảnh chẳng hề chi
Trời Âu quét tuyết đêm băng giá
Tim đỏ Lê- nin sáng lối về.
Cháo bẹ, rau măng rừng Pắc Bó
Gió lồng hang đá ngọn đèn khuya
Non sông ngàn dặm sao trời tỏ
Thế giới năm Châu đẹp bạn bè.
Chỉ nặng mỗi lòng tham tột bậc:
Người người áo ấm với cơm no
Con em đến tuổi vui đi học
Đất nước muôn đời được tự do
Bốn phương vô sản anh em cả
Muôn dặm quan san vốn một nhà
Mặt đất, thiên đường vui được nữa
“Đường lên hạnh phúc” cuối trời xa.
Tiếng sủa bên đường vẫn sáng trăng
Đường ta bay vỗ cánh chim bằng
Mác - Lê- nin đời xanh mầm sống
Rơi rụng bao nhiêu sắc úa vàng
Di chúc mỗi dòng rỏ máu tim
Muôn vàn thân ái gửi trăm miền
Mặc cơn đau búôt tình non nước
Hơi thở còn không phút laãg quên.
Thanh thản ra về nơi cõi thọ
Một toà đồ sộ Mác- Lê- nin
Xanh trong hồ ngọc, thơm lan, huệ
Cao cả cho đời một đức tin.
Bóng tối đã lùi tận góc xa
Tháng Năm sao mọc sáng muôn nhà
Bồi hồi bến cũ về thăm lại
Mây trắng Nhà Rồng nhớ Bác xưa.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 1999
NHÀ THƠ BẰNG VIỆT
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Việt Bằng
Sinh năm: 1941
Nơi sinh: Thạch Thất - Hà Tây
Bút danh: Bằng Việt
Thể loại: Thơ, truyện ngắn, dịch
Các tác phẩm:
Bếp lửa (1968) Chi tiết
Những gương mặt những khoảng trời (1973)
Đất sau mưa (1977)
Khoảng cách giữa lời (1983)
Cát sáng (1986)
Bếp lửa- khoảng trời (1988)
Phía nửa mặt trăng chìm (1986)
Giải thưởng văn chương:
Quỹ Hoà bình Liên Xô năm 1982 trao Giải thưởng về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hoá quốc tế
Giới thiệu một tác phẩm:
Bếp lửa
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạp ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa, nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa n iềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi sôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Nơi xuất bản: Tập Hương cây bếp lửa - Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ BÍCH KHÊ
Tiểu sử:
Tên thật: Lê Quang Lương
Sinh năm: 1916
Mất năm: 1946
Nơi sinh: Sơn Tịnh - Quảng Ngãi
Bút danh: Bích Khê
Thể loại: Thơ, truyện thơ
Các tác phẩm:
Tập thơ Tinh Huyết (1939)
Mấy Dòng Thơ Cũ (1931-1936)
Tinh Hoa (1938-1944)
Ðẹp (1939)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Huế đa tình
Thu về lạnh sắc tà dương
Hoàng cung chừng đã hơi hương bay rồi
Thuận An khuất bóng hoàng hôn
Gió bao giờ thổi lại hồn Tràng Giang
Nơi đây rụng đổ lá vàng
Lăng vua xa lắm dặm đàng nhạt xanh
Dòng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền ru khách thanh thanh tiếng đờn
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc tre cần trúc không buồn mà say
Non xa trăng đã tròn đầy
Em ơi để mặc lòng ngây lên mùa…
Nơi xuất bản: Trích tập Tinh hoa - Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1999
NHÀ THƠ BÌNH NGUYÊN
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đăng Hào
Năm sinh: 1959
Nơi sinh: Ninh Bình
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Hoa thảo mộc (2001)
Trăng đợi (2004)
Đi về nơi không chữ (2006) >> Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giải A cuộc thi thơ Lục bát năm 2002-2003 của báo Văn nghệ.
Giải chính thức của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam cho tập thơ Trăng đợi năm 2004.
Giải chính thức cuộc thi thơ “Bác Hồ của chúng ta” năm 2003-2004 của báo Văn nghệ.
Giải thưởng loại C của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2006 cho tập thơ Đi về nơi không chữ.
Giới thiệu một tác phẩm:
Lãng đãng thơ
Gửi một người thơ
Con đường ta đã dấn thân
Thì xin đi tận bước chân cuối cùng
Thì xin đi tận bão bùng
Thì xin đi tận chập trùng khói mây
Ngổn ngang trăm nỗi đời này
Câu thơ trả nợ biết ngày nào vơi
Con đường của bước chân ơi
Muôn sau bước đến con người là đâu
Bước nào gọi bước mai sau
Bước nào nhấn bước cho nhau nhói lòng
Ngỡ bầu bạn của ta đông
Tan sương mới thấy trống không con đường.
11/2005
(Trích tập thơ Đi về nơi không chữ; Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2006)
NHÀ THƠ BÙI CÔNG MINH
Tiểu sử:
Tên thật: Bùi Công Minh
Sinh năm: 1947
Nơi sinh: Đà Nẵng
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Ngày và đêm Chi tiết
Lặng lẽ mình
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Ngày và đêm
Rất dài và rất xa
Là những ngày mong nhớ
Nơi sáng lên ngọn lửa
Là trái tim yêu thương
Anh đang mùa hành quân
Pháo lăn dài chiến dịch
Bồi hổi đêm xuất kích
Chờ nghe tiếng pháo ran
Ngôi sao như mắt anh
Trong những đêm không ngủ
Giáo án em vẫn mở
Cho ánh sao bay vào
Ngày và đêm xa nhau
Đâu chỉ dài và nhớ
Thời gian trong cách trở
Đốt cháy ngời Tình Yêu
Pháo anh lên đồi cao
Nã vào đầu giặc Mỹ
Bục giảng dưới hầm sâu
Em cũng là chiến sĩ.
Cái chết cúi gục đầu
Cuộc đời xanh Tuổi Trẻ
Ngày đêm ta bên nhau
Những đêm ngày chiến đấu.
Nơi xuất bản: NXB Lao động - 2001
NHÀ THƠ BÙI GIÁNG
Tiểu sử:
Tên thật: Bùi Giáng
Sinh năm: 1926
Mất năm: 1998
Bút danh: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ buổi hoàng hôn, Người chăn trâu, Bùi Giàng Búi
Nơi sinh: Duy Xuyên - Quảng Nam
Thể loại: Thơ, dịch giả
Các tác phẩm:
Mưa nguồn (1963) Chi tiết
Ngàn thu rơi hột
Lá hoa cồn (1963)
Màu hoa trên ngàn (1963)
Quan ÂmThị Kính
Truyện Phan Trần
Cung oán ngâm khúc
Hoa ngõ hạnh
Con người phản kháng
Đi vào cõi thơ
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Hư vô và vĩnh viễn
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Ðời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dỡ
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
Ðường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo
Cồn sương đi vào sương lạnh miên man
Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước dạo
Ðêm tàn canh khắc ngợi nguyệt gương ngàn
Một lần đứng lên mấy lần ngồi xuống
Ngón trên tay và tóc xoã trên đầu
Tình đếm lại muôn vàn thôi đã uổng
Ðể bây giờ em có biết nơi đâu
Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ BÙI MINH QUỐC
Tiểu sử:
Tên thật: Bùi Minh Quốc
Sinh năm: 1940
Nơi sinh: Mỹ Đức- Hà Tây
Bút danh: Dương Hương Ly
Thể loại: Thơ, ký
Các tác phẩm:
Lên miền Tây
Mảnh đất nuôi ta thành dũng sỹ (1971)
Đôi mắt nhìn tôi (1984)
Hồi đó ở Sa Kỳ (1984)
Thơ tình Bùi Minh Quốc (1993)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Không đề III
Em nói sao? Đời trễ muộn rồi sao?
Nhưng mắt em… những gì chan chứa vậy
Như em vẫn là em của ngày xưa ấy
Của bao nhiêu xao xuyến thủa ban đầu
Như hai tâm hồn sinh ra cho nhau
Bàn chân cứ vô tình trên dấu chân đặt bước
Sau nỗi truân chuyên cùng cực
Một khoảng diệu kỳ không mất vẫn chờ nhau
Anh lao tới em. Xao xác gió sông Hàn
Chuyến phà đầy, ai ngóng đợi ai sang
Anh những múôn vút mình qua trời thẳm
Để thấy mặt em hiền như một thoáng trăng non
Anh cứ thế chẳng bao giờ khác được
Hỡi số phận ta ơi xin chớ đánh lừa
Anh cứ lao tới em mặc những làn gió ngược
Có lẽ nào lại gặp đắng cay xưa?
Anh lao tới em như một kẻ lữ hành sau chặng đường dài phiêu lạc
Bỗng thấy lại ánh đèn ngôi nhà thủa ấu thơ
Anh lao vội về, và diệu kỳ thay anh đã gặp
Bên ngọn đèn kia ngôi nhà nhỏ, em chờ…
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2001
NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Ngọc Hoan
Sinh năm: 1920
Mất năm: 1989
Nơi sinh: Cam Lộ - Quảng Trị
Bút danh: Chế Lan Viên, Chàng Văn
Thể loại: Thơ, tiểu luận phê bình, ký
Các tác phẩm:
|
|
Điêu tàn (1937) Chi tiết
|
|
|
|
Gửi các anh (1955) Chi tiết
|
|
|
|
Ánh sáng và phù sa (1960) Chi tiết
|
|
|
|
Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967) Chi tiết
|
|
|
|
Những bài thơ đánh giặc (1972) Chi tiết
|
|
|
|
Đối thoại mới (1973) Chi tiết
|
|
|
|
Hái theo mùa (1977) Chi tiết
|
|
|
|
Hoa trên đá (1985)
|
|
|
|
Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985)
|
|
|
|
Di cảo I - II (1994- 1995)
|
|
|
|
Vàng sao (1942)
|
|
|
|
Phê bình văn học (1962)
|
|
|
|
Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
|
|
|
|
Sau điêu tàn Chi tiết
|
|
|
|
Hoa trước lăng Người Chi tiết
|
|
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I) 1996
Giới thiệu một tác phẩm:
Tiếng hát con tàu
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón riêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đòi con nhớ mãi ơn nuôi.
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Anh nắm tây em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bựa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, ngươi là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1960
NHÀ THƠ CHÍNH HỮU
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Đình Đắc
Sinh năm: 1926
Ngày mất : 27.11.2007
Nơi sinh: Vinh - Nghệ An
Bút danh: Chính Hữu
Thể lọai: Thơ
Các tác phẩm:
Đầu súng trăng treo (1966, 1972, 1984)
Thơ Chính Hữu (1977)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt II-2000)
Giới thiệu một tác phẩm:
Đồng chí
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi, đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ.
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Nơi xuất bản: Sách Giáo khoa Văn lớp 12- Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN
Tiểu sử:
Tên thật: Đỗ Trung Quân
Sinh năm: 1945
Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh
Bút danh: Đỗ Trung Quân
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Cỏ hoa cần gặp(1991)
Những bài thơ hay Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |